Home » » HIỂM HỌA TIN LÀNH

HIỂM HỌA TIN LÀNH

Written By tâm tâm on Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013 | 06:21


HIỂM HỌA TIN LÀNH 


Trần Chung Ngọc








đăng ngày 02 tháng
10, 2009

LTS: Khái niệm bảo vệ môi sinh dường như mới được phát triển và ý
thức trong vài thập niên gần đây. Người ta thường nói đến cụm từ "ô
nhiễm môi sinh". Cả năm qua nhiều người Việt Nam tỏ ra bức xúc, và phản
đối dữ dội khi nghe đến hiểm họa môi trường trong việc chính phủ cho
khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên. Đó là vấn đề ô nhiễm thuần vật
chất, vấn đề sinh thái.


Nhưng còn một môi sinh quan trọng hơn nữa, đó là môi sinh văn
hóa, là bản sắc dân tộc, là sinh mệnh tinh thần của một dân tộc, há
chẳng phải lớn hơn môi sinh vật chất hay sao? Hãy tưởng tượng nếu một
mai đây, trên xứ Việt, những người sinh sống nơi đó vẫn mũi tẹt da vàng,
nhưng tinh thần đã mất, vì họ không còn được dạy về những cái tinh hoa
của văn hóa họ nữa. HỌ KHÔNG CÒN RU CON BẰNG CA DAO, KHÔNG CÒN NHỮNG BUỔI CÚNG GIỖ, KHÔNG CÒN BÀN THỜ ÔNG THIÊN, HAY BÀN THỜ TỔ TIÊN, CHA MẸ,  KHÔNG CÒN RƯỚC ĐÈN TRUNG THU, ĂN BÁNH ĐÓN TRĂNG, ĐÁM CƯỚI KHÔNG CÒN CHÚ TRỌNG ĐẾN VIỆC LẠY TẠ CHA MẸ, TẤT TẤT ĐỀU THAY ĐỔI, TỪ ĐIỆU HÁT, TIẾNG ĐÀN, NHỮNG DẤU VẾT KIẾN TRÚC CŨNG TỪ TỪ BỊ XOI MÒN VỚI NGỌN BÃO LAI CĂNG. Những mái chùa khiêm nhường nằm ngang với những góc uốn cong
dịu dàng sẽ bị thay thế bằng những nóc nhà thờ thẳng nhọn, cao chót vót,
lấn lướt, và ngạo nghễ, ... Hình thức đổi thì tâm tình cũng đổi theo.
Những tâm hồn hiếu hòa, khiêm cung, sẽ biến thành những "tinh thần hiếu
chiến", kiêu ngạo, khoe khoang. Từ nếp sống dựa trên triết lý nhân bản
trở thành nếp sống dựa trên thần thánh và tin tưởng viễn vông. Tóm lại,
từ tốt trở thành không tốt.



Nếu có một ngày mai như thế đó, thì những người Việt Nam còn gì
là bản sắc ? E rằng họ không còn là nguời Việt Nam của chân trời Đông
Nam Á với tính cách đặc thù của nó như mấy trăm năm trước. Có lẽ là một
dân tộc mất gốc! Nền văn hiến 4 ngàn măm trước, thay vì được tiếp tục
khai triển và mở mang, thì nó lại bị ngả rẽ từ lúc nào, và tiếp tục bằng
những bước đi hoang đường, học đòi trở lại đi bốn chân, đội lông làm
thú ngây ngô, nhận tổ phụ của người làm của mình, và được họ khen là
"đẹp, sang, và văn minh quá!". Người Phi Luật Tân ngày nay cũng như dân
ở Châu Mỹ La tinh, đã mất bản sắc dân tộc, cả ngôn ngữ, văn hóa đều
không còn, chỉ có nhà thờ đạo Chúa thì tràn ngập. Nếu ai hỏi những người
trẻ ở Phi về bản sắc văn hóa của nước Phi ra làm sao, thì những người
đó chỉ có thể diễn tả từ tín ngưỡng đến tập quán tất cả đều giống Tây
Ban Nha hay Âu Mỹ mà thôi. Nếu ngày mai của chúng ta như thế, với một
nền văn minh lai căng, không còn bản sắc của mình, làm sao con dân Việt
của chúng ta dám tự hào về 4 ngàn năm văn hiến ?


CHUYỆN CHẲNG LÀNH ĐÓ CÓ THỂ XẢY RA TRONG MỘT NGÀY GẦN NẾU NGAY BÂY GIỜ TA KHÔNG KỊP THỜI NGĂN CHẬN VÀ PHẢN ĐỐI LÀN SÓNG Ô NHIỄM ĐÓ, LÀN SÓNG CỦA NHỮNG NGƯỜI MẮC BỆNH VÀ ĐEM CON BỆNH CỦA MÌNH RA TRUYỀN CHO CÔNG CHÚNG. BUỒN THAY, NHỮNG VIỆC TRUYỀN NHIỄM NÀY LẠI ĐƯỢC CHỦ NHÂN CỦA HỌ GỌI LÀ "SỨ MỆNH TRUYỀN ĐẠO", RẤT "CAO CẢ." MONG RẰNG NGƯỜI DÂN VIỆT NAM THỨC THỜI NHẤT QUYẾT KHÔNG TIẾP XÚC VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐÃ MẮC BỆNH TRUYỀN NHIỄM MÀ CÒN THÍCH ĐI "TRUYỀN BỆNH." Đọc loạt bài "Hiểm Họa Tin
Lành" của GS Trần Chung Ngọc sau đây, bạn đọc sẽ thấy rõ tại sao chúng
ta nên bảo nhau dạy con trẻ nhận biết những nguồn ô nhiễm để né tránh và
ngăn chận.
(SH)



Toàn tập: 4  


(Phần I)


Tin Lành Lê Anh Huy



Tin Lành
là một hiểm họa, một họa rất nguy hiểm cho nhân loại nói chung, cho Việt Nam
nói riêng, nếu Việt Nam để cho Tin Lành tự do truyền đạo. Tại sao? Vì
trong khi tín đồ Ca-tô hoàn toàn lệ thuộc Giáo hội Ca-tô Rô-ma, là nô lệ tâm
linh của vị chủ chăn là Giáo hoàng ở tổng hành dinh Vatican, thì các tín đồ
Tin Lành là nô lệ của cuốn Kinh Thánh, tuyệt đối tin rằng cuốn Kinh Thánh là
những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Trong lịch sử
Ki-tô giáo, Giáo hội Ca-tô Rô-ma luôn luôn thay đổi, đã phải sửa sai nhiều
lần, và đã phải chính thức xưng thú 7 núi tội ác của Giáo hội đối với nhân
loại. Trong khi đó thì Tin Lành bảo thủ vẫn tiếp tục chấp chặt vào cuốn
Kinh Thánh, một cuốn sách chủ trương độc thần không khoan nhượng, và hơn 50%
chứa những chuyện giết người hàng loạt tàn bạo, loạn luân, vô đạo đức
v..v.., chỉ vì trong đó có hứa hẹn một sự “cứu rỗi” của một người Do Thái đã
chết và táng xác cách đây gần 2000 năm. Hiểm họa Tin Lành là ở chỗ này, vì
Kinh Thánh có rất nhiều điều sai lầm về thần học cũng như về khoa học, không
hợp với thời đại, và có tính cách ngu dân. Một học giả, Neale Donald
Walsch, đã nhận định trong cuốn The New Revelations, trang 51: “Những nhà bảo thủ Tin Lành tin rằng
con đường tiến tới là con đường đi
giật lùi
, giật lùi về đúng những lời nguyên thủy của cuốn Kinh Thánh –
một cuốn sách phải đọc nguyên văn, và áp dụng từng câu từng chữ.”

(Fundamentalists believe that the way forward is the way backward, to the
original and exact words of the Holy Scripture – to be read verbatim, and
applied literally)
. Bài viết này không ngoài mục đích trình bày những tai
họa của Tin Lành trên đầu óc con người và do đó trên xã hội, qua sự phân
tích một số sản phẩm “trí thức” của vài tân tòng Tin Lành Việt Nam.




Trên diễn đàn thông
tin điện tử hải ngoại trong những năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện một
số tân tòng Tin Lành điển hình như Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng, Nguyễn Huệ
Nhật, và Trần Long v..v… ở trong nước. Đặc tính chung của những tân tòng
này là bảo hoàng hơn vua, hung hăng nhất mực, đầu óc mê mẩn với một cái bánh
vẽ trên trời.
Nếu họ chỉ mù lòa tin bướng tin càn thì chẳng ai nói đến
làm gì. Nhưng khổ thay, họ lại mang cái kiến thức rất hời hợt của họ về tôn
giáo ra để mà truyền đạo, hi vọng có thể kéo con người trở lại thời đại man
rợ trí thức của thời Trung cổ. Trên diễn đàn trí thức ngày nay mà họ vẫn
còn đưa ra những luận điệu truyền đạo đã lỗi thời, sặc mùi mê tín, đượm tính
ngu si vô trí [xin hiểu “ngu si vô trí” theo nghĩa trong thuật ngữ của Phật
giáo: Không biết rõ sự thật, không chấp nhận sự thật trước những bằng chứng
hiển nhiên, và tiếp tục nhận giả làm chân], cùng lúc mang mớ kiến thức hời
hợt, sơ đẳng, để xuyên tạc bài bác Phật Giáo và truyền thống văn hóa Việt
Nam. Tin Lành đã biến họ thành những kẻ không còn tinh thần quốc gia dân
tộc, chối bỏ nguồn gốc, chỉ mê mẩn với sự “cứu rỗi” của một người Do Thái
tiểu sử thuộc loại bất minh, đã chết và táng xác cách đây gần 2000 năm.

Xuyên qua một số bài
viết của một số tân tòng Tin Lành chúng ta có thể thấy rõ thực chất của đạo
Tin Lành là như thế nào. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không thể lấy ý kiến của vài
cá nhân để tổng quát hóa về đạo Tin Lành. Nhưng kỳ lạ thay, khi nghiên cứu
về phái bảo thủ Tin Lành, chúng ta thấy rõ sự phù hợp giữa sách lược truyền
đạo, niềm tin tuyệt đối vào những điều vụn vặt trong Kinh Thánh, và những
luận cứ trong những bài viết của một số tân tòng Tin Lành, ở ngoại quốc
cũng như ở trong nước.

Khuôn mặt tân
tòng Tin Lành mê muội và khộng kém phần ngu dốt là Lê Anh Huy và Nguyễn Huệ
Nhật ở hải ngoại, và Trần Long ở trong nước. Lê Anh Huy là một trí thức
dỏm, ăn phải cái bả Tin Lành rồi bác bỏ nguồn gốc truyền thống của người dân
Việt Nam, xuyên tạc Phật Giáo
. Nguyễn Huệ Nhật thì theo đạo Phật rồi vì
bị khủng khoảng cả tinh thần lẫn vật chất, như chính ông ta từng thú nhận:
“khờ khạo, vụng về, mất thăng bằng, thất bại trong trường đời, bị tù, hai
lần vợ bỏ v..v..”
nên bỏ đạo Phật, quay sang Tin Lành, dựa vào sự an ủi
của một cặp nạng thuộc loại mì ăn liền: thiên chúa. Trong hoàn cảnh khủng
khoảng tinh thần và vì căn trí bất cập, chuyện Nguyễn Huệ Nhật bỏ đạo Phật,
đạo của trí tuệ, để theo Tin lành, đạo của đức tin, tin mà không cần biết
không cần hiểu, một đức tin thuộc loại mù lòa tin bướng tin càn, là chuyện
dễ hiểu, có thể thông cảm. Vì đạo Tin Lành là để cho những người khờ khạo,
vụng về, mất thăng bằng, và nhất là khi họ đang ở trong những hoàn cảnh
khủng khoảng tinh thần hay vật chất như Nguyễn Huệ Nhật. Đây không phải là
điều tôi nói không căn cứ. Tất cả đều dựa trên sự tìm hiểu của tôi về đạo
Tin Lành. Những trích dẫn sau đây hi vọng sẽ cho chúng ta biết rõ hơn về
bản chất của đạo Tin Lành.

Trong cuốn “Đạo Tin
Lành Và Sự Đàn Áp
” (Protestantism and Repression, Orbis Books, New York,
1985), Mục sư Tin Lành Rubem Alves, giáo sư đại học ở Campinas, Brazil, đã
phân tích rất sâu sắc về mọi khía cạnh của đạo Tin Lành, đặc biệt là về tâm
thức của những người tân tòng trong Chương 2: Cải Đạo: Cái Khuôn Xúc
Động Tình Cảm Của Tin Lành
(Conversion: The Emotional Matrix of
Protestantism), dài 22 trang giấy, từ 22 đến 46. Đây là một cuốn sách,
dày 215 trang, rất hữu ích cho những người nào muốn tìm hiểu về đạo Tin
Lành, từ cấu trúc tình cảm, nhận thức thực tại, cho đến phương pháp tẩy não,
nhồi sọ những giáo điều mà Tin Lành chấp chặt bất kể đến những bằng chứng về
lô-gic, về khoa học, về xã hội, những bằng chứng trái ngược với Kinh Thánh
một cách rất hiển nhiên
. Chúng ta hãy đọc một đoạn ngắn trong mục “Cải Đạo và Khổ” (Conversion and Suffering), trang 43-44, để thấy rõ Tin
Lành đã lợi dụng những tình trạng khủng khoảng về vật chất và tinh thần của
con người như thế nào để kéo họ vào trong vòng mê tín của Tin Lành:

Sự
phân tích vấn đề của chúng tôi đưa đến kết luận là, kinh nghiệm cải đạo
là sự đáp ứng của một tình trạng khủng khoảng.
Sự cải đạo giải quyết
một ngõ bí tình cảm.


Đó
là tại sao giáo hội phát triển nhanh hơn trong những địa phương ở đó những
tiến trình xã hội đã gây ra sự khổ, đặc biệt là từ hoàn cảnh ngoài lề xã hội
và sự sụp đổ ý nghĩa của cuộc đời.. Những địa phương như vậy là ưu tiên số
một của các nhà thờ ở địa phương, mà những nỗ lực để tạo nên đời sống trong
giáo hội được chú trọng trong những địa phương này.


Tôi
không nói điều gì mới lạ đối với những người Tin Lành. Không có sự cải
đạo
(vào Tin Lành) nếu không có sự khủng khoảng, không có sự cải đạo
mà không có sự khổ
. Cải đạo là một quá trình mà con người hấp thụ sự
khổ thành một ý nghĩa mới của cuộc đời và làm cho nó có ý nghĩa...



phải là khó hiểu không khi mà
(vai trò của)
Chúa Ki-Tô
(Giê-su) không thể rao giảng được cho những
người cảm thấy mình an toàn, hạnh phúc, cho những người cảm thấy đời sống
thật đáng sống, cho những người không đang ở trong cơn khủng khoảng? Có
phải là kỳ cục không khi mà Chúa Ki-Tô
chỉ có thể trình bày và làm
cho có ý nghĩa trong những tình trạng bệnh hoạn trong đó con người bị nhiễm
bởi sự bất an, bởi những cảm xúc tội lỗi, và sợ hãi cái chết?
Thật ra
nhiệm vụ của những nhà truyền bá phúc âm là gì? Nhiệm vụ của họ là gán cho
một cơn khủng khoảng những cái tên thần học trong khi nguồn gốc của nó chỉ
là tâm lý xã hội. Nhà truyền bá phúc âm tìm cách khơi động một cơn khủng
khoảng mà con người có thể không cảm thấy trước, rồi từ đó, và chỉ từ đó, họ
mới có thể tuyên bố: “Chúa Ki-Tô là giải đáp”


Chúng tôi bắt buộc phải kết luận rằng thế giới chỉ mở chỗ cho Kờ-rít khi nó
cảm thấy ốm đau, bệnh hoạn. Có một lý do thần học nào để giải thích là tại
sao sự sợ hãi cái chết lại là những bí tích đặc quyền của sự cứu rỗi?

Nói cách khác, kinh nghiệm cải đạo giả định là điểm gặp nhau giữa Thiên Chúa
và thế giới là sự khổ và thống khổ. Có phải là có một cách nhìn thực tại
một cách tự mãn trong sự đau khổ (sadomasochistic vision of reality) tiềm ẩn
ở đàng sau giả định như vậy?
[Tác giả dùng từ sadomasochistic nghĩa là
phối hợp của sadism (thỏa mãn trong sự độc ác) và masochism (cảm thấy thích
thú khi bị thống trị hay bị bạc đãi). Về điểm này, Tin Lành không khác
gì Ca-tô Giáo Rô-ma. Trong cuộc hành hương vừa qua tại Lộ Đức
(Lourdes),
Giáo hoàng John Paul II đã phát biểu là ngài chia sẻ sự đau đớn vật chất
của các tín đồ và bảo đảm với họ là những sự đau đớn bệnh hoạn của họ là nằm
trong “kế hoạch kỳ diệu” của Thiên Chúa
. (Pope John Paul II
joined thousands of other ailing pilgrims at Lourdes... telling them he
shares in their physical suffering and assuring them that the burden is part
of God’s “wondrous plan”.
)]

Sự
khổ được biến đổi thành một dạng ân sủng, vì nó mang đến cho kẻ tội lỗi một
cơ hội để gặp Chúa Ki-Tô.
[Ở đây, chúng ta lại thấy Tin Lành và
Ca-tô gặp nhau ở điểm này. Thật vậy, một học giả chuyên gia viết tiểu sử,
Anne Sebba, đã sang tận Calcutta và nhiều nơi khác để quan sát nhưng “cơ sở
từ thiện” (sic) của bà Teresa, và đã viết trong cuốn “Mother Teresa:
Beyond The Image”
(Mẹ Teresa: Ngoài Cái Hình Ảnh Đã Được Dựng Lên) là:
“Công
việc từ thiện của bà Teresa không bắt nguồn từ chính lòng từ thiện mà động
cơ thúc đẩy chính là để làm sáng danh Chúa Ki-Tô và để truyền đạo... Bà
Teresa đã khẳng định rằng công việc từ thiện bà làm là để phục vụ Chúa
Ki-Tô, không phải phục vụ con người, phục vụ Chúa Ki-Tô bằng cách kiếm thêm
nhiều tín đồ cho Chúa Ki-Tô mà những sự đau khổ, bất hạnh của con người là
những cơ hội để bà làm việc thiện, chứng tỏ lòng “từ bi” (sic) của bà.

Sự khổ càng lớn thì những cơ hội truyền đạo càng nhiều. Phải chăng điều
này hàm ý là Giáo hội được đặt trong một vị thế khó hiểu là thường cầu
nguyện cho nhân loại bị khổ nhiều hơn để cho con người có thể chấp nhận
thông điệp của giáo hội
? Đây là câu hỏi mà Dietrich Bonhoeffer
[Một
nhà thần học Ki-tô bị chết trong nhà tù của Đức Quốc Xã] đặt trước Giáo
hội.
]

Vậy
những nhà biện hộ cho đức tin Ki-tô, những người mang những “tin lành” thực
sự đã làm những gì?


Họ
chứng tỏ cho những người đang ở trong tình trạng an toàn, hài lòng, hạnh
phúc, thực ra là chẳng sung sướng gì, tuyệt vọng, và không ý thức được rằng
mình đang ở trong tình trạng nghiêm trọng mà mình không biết gì về nó, từ đó
chỉ có họ
(những nhà
truyền bá phúc âm) mới có thể cứu được. Bất cứ ở nơi nào mà có sự
khỏe mạnh, sức sống, sự an toàn, bình dị, họ dò xét để kiếm những trái cây
ngọt ngào
[những kẻ nhẹ dạ, cả tin] để gặm nhấm hoặc kiếm chỗ
đặt những cái trứng độc hại của họ trong đó. Họ đặt mục tiêu số một vào
cách đưa con người vào tình trạng tuyệt vọng nội tâm, và từ đó những người
này sẽ hoàn toàn lệ thuộc họ.
[Bonhoeffer].


Cải đạo
(theo Tin Lành) là một giải đáp cho một vấn nạn đau đớn. Người ta bắt
đầu đi từ cải đạo đến một quan niệm về thế giới có tác dụng ngăn ngừa sự tái
xuất hiện của kinh nghiệm bất an tiên khởi. Mục đích
[của cải đạo]
là đuổi đi sự sợ hãi. Nếu sự cải đạo đã đủ để chứng minh có thể đuổi đi sự
sợ hãi, tâm thức con người sẽ gắn chặt vào kinh nghiệm cải đạo và vào quan
niệm mới về thế giới. Đó là tại sao mọi lý luận không có tác dụng ở trình
độ này. Chúng ta có thể đưa ra mọi thứ bằng chứng – lô-gic, khoa học,
hay bất cứ bằng chứng nào khác – để kêu gọi người cải đạo suy tư về kinh
nghiệm cải đạo của họ. Bằng chứng này bị bác bỏ ngay lập tức bởi người tân
tòng
.
[Bởi vì người tân tòng sợ phải đối diện lại với một tâm thức bất an như
trước.] 1

Nơi trang
84-85, mục sư Rubem Alves còn cho chúng ta biết rõ những người tân tòng đã
cải đạo vào Tin Lành như thế nào và tâm thức của họ đã bị cộng đồng Tin Lành
thay đổi như thế nào để họ có thể được chấp nhận trong “hội thánh” (sic) Tin
Lành. Đọc xong đoạn sau đây chúng ta sẽ hiểu rõ hơn tại sao những tín đồ
Tin Lành như Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng hay Nguyễn Huệ Nhật, Trần Long lại
như những con vẹt, nhắc lại y chang những điều mà họ được truyền dạy trong
những cộng đồng Tin Lành:

Tình trạng
của một kẻ tân tòng giống như tình trạng của một đứa trẻ lần đầu tiên đi đến
trường học. Họ không biết gì hết
.
Kiến thức sẽ
được dàn xếp để truyền cho họ bởi một người [tự cho là] đã có kiến thức (về
Tin Lành). Quá trình học tập là một quá trình tập sự. Sự tương giao xã hội
giữa hai bên không phải là một sự tương giao bình đẳng. Ông thầy và kẻ tập
sự, thầy dạy giáo lý và kẻ tân tòng học hỏi, không ở cùng một trình độ. Một người là thuộc cấp của người kia; do đó quyền lực nằm trong phương
trình này. Những người dạy giáo lý là những người có quyền năng áp đặt
những định nghĩa về thực tại của mình; những kẻ tân tòng học hỏi là những
người không có quyền giữ những định nghĩa về thực tại của mình..


Ngay cả trước khi những kẻ tân tòng học hỏi bất cứ điều gì về thế giới, họ
được dạy để tự coi mình như là không biết gì. Những kiến thức của họ được
để trong dấu ngoặc và được dạy phải nghi ngờ. Họ không được phép viện ra
những điều mà họ cho là họ biết để phê bình loại kiến thức mà “hội thánh”
muốn chuyển đạt cho họ. Tại sao vậy? Vì kiến thức có trước của họ là tài
sản từ các thời kỳ tăm tối và bị đầy đọa từ trước. Đầu óc của họ được đưa
về tình trạng của những trang giấy trắng. Họ không có gì để nói; nhiệm
vụ của họ là nghe. Là những kẻ tập sự và học hỏi, họ phải tuân phục định
chế của giáo hội trong yên lặng.
Nay họ biết rằng định chế đó có
độc quyền về sự hiểu biết tuyệt đối, do đó có độc quyền để nói.


Như vậy, trong thế giới Tin Lành, quá trình học hỏi bắt đầu bằng một bài
học thuộc loại đặc biệt về mối giao hệ xã hội: những người dạy giáo lý nói,
những kẻ học hỏi ngồi yên; những người dạy giáo lý giảng dạy, những kẻ học
hỏi nhắc lại. Nếu những kẻ học hỏi không biết là mình tin cái gì

(như những người giảng dạy tự cho là mình đã biết), họ
không đủ tư cách để nói
. Đúng là những kẻ tân tòng được tự do tỏ lộ
tình cảm của mình. Nhưng họ không thể nói điều gì về sự hiểu biết của
họ. Đó là tại sao loại ngôn từ thích hợp của những kẻ tân tòng học hỏi là
nhắc lại, như sách giáo lý
(của Tin Lành)
đã minh họa rõ ràng. Những sách giáo lý là sách đầu tiên để
cho những kẻ tân tòng tập sự và học hỏi. Chúng chứa những câu hỏi và những
câu trả lời viết sẵn. Khi nào thì những kẻ tân tòng học hỏi hiểu
sách giáo lý của Tin Lành? Khi họ có thể đọc thuộc lòng những câu trả lời
in sẵn trong đó.
Sự học hòi của cộng đống Tin Lành được định nghĩa theo
loại kiến thức đó, và sự kiểm tra sự học hỏi của những kẻ tân tòng là khả
năng nhớ và nhắc lại những câu hỏi và câu trả lời trong sách giáo lý. Theo
cách này tâm thức tập thể của cộng đồng Tin Lành được in vào đầu óc và tâm
thức của thành viên. Thế còn vấn đề tự do tìm hiểu thì sao? Thế còn vấn
đề để cho những kẻ tân tòng học hỏi tự mở mang trí tuệ? Không thể tìm thấy
ở đâu trong đạo Tin Lành
.

2

Ngoài ra,
mục sư Rubem Alves còn cho chúng ta biết, trang 34, là Tin Lành
cấy vào đầu tân tòng mặc cảm tội lỗi, và để có thể vào trong cộng đồng Tin
Lành, người tân tòng phải tin rằng mình sinh ra trong tội lỗi, và vì cái bản
chất tội lỗi đó con người không thể làm điều gì tốt
(Believe that you
were born in sin, and that by nature you are incapable of doing good.). Để thoát ra khỏi cái bản chất tội lỗi đó, con người chỉ có một cách: chấp
nhận Dê-su Ki Tô là đấng cứu chuộc duy nhất và đầy đủ
(Accepting Christ
as the sole and sufficient savior). Cái công thức này không khuyến khích
làm thiện mà chỉ cần đầu phục Dê-su Ki-Tô
(The formula calls not for
doing but for surrendering to Christ). Thật vậy, rất mực đạo đức còn
thường được coi là một chướng ngại trong sự cải đạo
(Indeed moral
excellence is often considered an obstacle to conversion).

Với những hiểu biết
như trên về sự cải đạo vào Tin Lành, rồi đọc một vài bài của Lê Anh Huy,
Huỳnh Thiên Hồng, hay Nguyễn Huệ Nhật, Trần Long v…v… chúng ta thấy Mục sư
Rubem Alves viết không sai một mảy may, và chúng ta không thể không tội
nghiệp cho những đầu óc đã bị điều kiện hóa qua những thủ đoạn truyền đạo
của Tin Lành. Nhưng thật ra, chúng ta không thể quy trách hoàn toàn cho
những người truyền đạo, bởi vì đó là nghề nghiệp của họ, dùng bất cứ thủ
đoạn nào để kéo những người đang ở trong cơn khủng khoảng tinh thần và vật
chất vào mớ xiềng xích tâm linh của Tin Lành. Họ thành công vì một phần
khá nhiều thuộc căn trí thấp kém và yếu kém của những kẻ tân tòng. Nếu căn
trí của những kẻ tân tòng không yếu kém, nếu lòng tự tin, tự trọng của họ
không mất đi, nếu đầu óc của họ có khả năng suy luận dù chỉ là tối thiểu,
thì làm sao họ có thể bị thuyết phục bởi những điều thuộc loại mê tín, hoang
đường đã quá lỗi thời của Tin Lành?


Chẳng trách là Mục sư
Tin Lành Ernie Bringas đã nhận định trong cuốn Going By The Book: Past
and Present Tragedies of Biblical Authority
, trang bìa sau: “đầu
óc của đa số tín đồ Ki Tô Giáo, đặc biệt là Tin Lành, có một khuyết tật, họ
là nạn nhân của một khoảng cách kiến thức đặt họ vào trình độ hiểu biết tôn
giáo thích hợp nhiều hơn với thế kỷ 17
”.
[Christians are victims of
a knowledge gap which places them at a level of religious understanding much
more appropriate to the 17th century]. Để chứng minh, sau đây
tôi sẽ luận về một vài điểm điển hình trong những bài tôi đã đọc của Lê Anh
Huy, Huỳnh Thiên Hồng và Nguyễn Huệ Nhật, Trần Long. Tuy nhiên đây không
phải là bài phê bình mấy người trên, mà chỉ là phân tích những vấn nạn chung
của Ki Tô Giáo qua những niềm tin lạc hậu, vô căn cứ của họ. Trong phần I
của đề tài Hiểm Họa Tin Lành, tôi chỉ phê bình một câu của Lê Anh
Huy.

Năm 2001 tôi đã phê
bình bài “Tìm Hiểu Niết Bàn” của Lê Anh Huy [trên trang nhà Giao
Điểm] và chứng minh là kiến thức của ông ta về đạo Phật và về chính tôn giáo
của ông ta, Ki-tô giáo, thuộc loại ăn đong, rất hời hợt, bắt nguồn từ sự mù
lòa tin bướng tin càn vào những chuyện hoang đường về Dê-su Ki Tô (Jesus
Christ).

Lê Anh Huy viết bậy
rất nhiều, nhưng chúng ta hãy đọc một trí thức (sic) ăn phải cái bả Tin Lành
rồi nguyền rủa dân tộc Việt Nam yêu quý của chúng ta như thế nào:

“Nhưng mặc khải của
Chúa cho biết rằng Rồng là hình ảnh của ác quỉ . Do đó chúng tôi vẫn cầu
nguyện cho dân tộc VN chối bỏ truyền thuyết "con rồng cháu tiên" . Đây là
dấu chỉ của sự phục tòng ác quỉ. Một dân tộc thờ lạy ác quỉ thì lẽ đương
nhiên thưộc quyền ác quỉ và đầy tớ của chúng.”


Tôi chưa thấy ai có
thể viết vừa ngu xuẩn, vừa láo lếu [xin lỗi quý độc giả, tôi không thể tìm
được danh từ nào thích hợp hơn] hơn Lê Anh Huy. Tai họa của Tin Lành thật
là rõ rệt, có thể biến một người bình thường, và ngay cả một người tự coi
mình là trí thức, thành một kẻ vong bản, một kẻ mù quáng đến độ có thể
nguyền rủa cả một dân tộc và tổ tiên của chính mình. Cái thậm ngu, chí ngu
của Lê Anh Huy là mang cái gọi là “mặc khải của Chúa” về con rồng, coi đó là
một chân lý không thể sai lầm, để mà đả phá những quan niệm khác trên thế
giới về con rồng, và nhất là niềm hãnh diện “con rồng cháu tiên” của tuyệt
đại đa số người dân Việt Nam, trong đó có tổ tiên và có thể là có ông bà,
cha mẹ của Lê Anh Huy.

Một chân lý khoa học
thì có tính phổ quát, vì có thể áp dụng khắp nơi. Một quan niệm địa
phương của một người Do Thái về bất cứ cái gì cũng không thể coi như là chân
lý, giống như một chân lý khoa học. Đây là điều sơ đẳng nhất mà chỉ có
những kẻ hạ căn cuồng tín nhất mới dám mang ra dùng
. Lê Anh Huy không
biết rằng đối với nền văn hóa Á Đông, Rồng là một trong Tứ Quý: Long, Ly,
Qui, Phượng. Ở đây không phải là chỗ bàn về nguồn gốc dân Việt. Tôi chỉ
muốn nói rằng, mỗi nền văn hóa đều khác nhau. Văn hóa Á Đông coi Rồng như
một biểu tượng của sự cao quý, biểu tượng của Vua Chúa, biểu tượng của trí
tuệ. Vì chỉ là một biểu tượng cho nên Rồng chưa làm hại ai, nên không thể
gọi là ác quỷ. Nhưng thực ra chính là Lê Anh Huy đang thờ lạy ác quỷ.
Chứng minh?

James A. Haught đã đưa ra một nhận định
bất khả phủ bác trong cuốn 2000 years of disbelief: famous people with
the courage to doubt,
trang 324, như sau, về Chúa Trời của Lê Anh
Huy:

Qua luận lý, chúng
ta có thể thấy quan niệm của giáo hội về một thiên chúa ở trên trời với lòng
thương yêu vô cùng không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo ra
muôn loài thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho
trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (alzheimer), và hội chứng
down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo cắn xé nát
những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu nai. Không có một
con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng khiếp như vậy. Nếu
một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con ác quỷ,
không phải là một người cha nhất mực nhân từ.


(Through logic,
you can see that the church concept of an all-loving heavenly creator
doesn't hold water. If a divine maker fashioned everything that exists, he
designed breast cancer for women, childhood leukemia, leprosy, aids,
alzheimer's disease, and down's syndrome. He madated foxes to rip rabbits
apart and cheetahs to slaughter fawns. No human would be cruel enough to
plan such horrors. If a supernatural being did so, he's a monster,
not an all-merciful father.)

Ông Lê Anh Huy nghĩ
sao? Con Rồng chưa làm hại ai, trong khi thiên chúa của ông đúng là một ác
quỷ mà ông đang thờ lạy. Ông có dám phủ nhận điều này hay không? Có phải là một người
thờ lạy ác quỉ thì lẽ đương nhiên thưộc quyền ác quỉ và là đầy tớ của
Vậy thật ra, bản chất của Lê Anh Huy chỉ là một tôi tớ của
một ác quỉ, không hơn, không kém.
Bởi vì chỉ có ác quỉ mới dạy tôi
tớ chối bỏ nguồn gốc của mình để đi theo ác quỉ. Không cứ phải là một bậc
thánh thiện, mà bất cứ người thường nào cũng không làm như vậy.


Ông Lê Anh Huy tin vào
lời mạc khải của Chúa về con Rồng. Vậy ông có tin vào những lời mạc khải
của Chúa trong sách Khải Huyền ở cuối Tân ước hay không? Chắc chắn là có
phải không? Vì đó là niềm hi vọng để ông được Chúa chọn (với xác suất bằng
số không) cho lên thiên đường (mù) sống cuộc sống đời đời cùng Chúa. Nhưng
ông có biết rằng Sách Khải Huyền đã được Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson
phê bình một cách rất chính xác như sau: “Sách Khải Huyền là những lời
nói dốt nát của một kẻ điên khùng
[President Thomas
Jefferson referred to the Book of Revelation as “the ravings of a maniac”,
West County Times, California, USA, Editor Steven Morris, 14 August, 1995].


Kẻ điên
khùng dốt nát này là ai? Kinh Thánh viết rõ tên sách Khải Huyền: “The
Revelation of Jesus Christ”, có nghĩa là Lời mạc khải của
Dê-su Ki-Tô”. Vậy tại sao ông lại tin vào những lời mạc khải của một
tên dốt nát điên khùng để chối bỏ nguồn gốc con Rồng cháu Tiên của người dân
Việt Nam mà hầu hết người dân Việt Nam chúng tôi đều trân quý, trừ những kẻ
vong bản, mất gốc như ông? Đối với đa số học giả và những người trong giới
hiểu biết thì Kinh Thánh chẳng qua chỉ là một sản phẩm dẫn xuất từ
những sự mê tín trong thời bán khai
(a product derived from
primitive superstitions).


Vậy giá trị sự mạc khải của thiên chúa trong
Kinh Thánh thì có giá trị gì đối với nhân loại. Nó chỉ có giá trị đối với
những người như Lê Anh Huy, nhưng người bị bệnh tâm thần. Nghiên cứu Tân
Ước, các học giả cũng đã thấy rõ rằng, Dê-su đã vấp phải nhiều sai lầm về
lịch sử, về khoa học, và về thần học. Vậy làm sao ta có thể tin được những
lời mà những người như Lê Anh Huy [LAH] xưng tụng như là những lời mạc khải
của Thiên chúa, làm như những lời này phải có giá trị tuyệt đối mà ai cũng
phải tin theo? Để giúp ông Lê Anh Huy thấy rõ vấn đề, sau đây tôi xin đưa
ra vài tài liệu nghiên cứu về thực chất Chúa của ông ta mà uy tín của các
tác giả khó có ai trong giới trí thức có thể phủ nhận.

1. Sau khi duyệt qua những công cuộc khảo cứu về nhân
vật Dê-su trong 2 thế kỷ nay, học giả Russell Shorto đã viết trong cuốn Sự Thật Trong Phúc Âm (Gospel Truth) như sau:

... Các học
giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Dê-su chẳng gì khác
hơn là một người thường sống với một ảo tưởng
– họ đã dạy điều này cho
nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không
cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám
tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô
bình thường
.


(Scholars
have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision
– for decades; they have taught it to generations of priests and ministers,
who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of
anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.)

2. Giám Mục
Tin Lành John Shelby Spong là một học giả Ki Tô nổi tiếng của Hoa Kỳ. Ông
ta viết rất nhiều sách duyệt lại hệ thống tư tưởng Ki Tô Giáo dựa trên Thánh
Kinh, và ông đã nhiều lần được mời lên TV để trình bày quan điểm của mình.
Trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Về Chuyện
Sinh Ra của Giê-su
(Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of
Jesus) , Giám mục Spong viết như sau:

“Chẳng có
ai biết cha ông ta (Dê-su) là ai. Rất có thể ông ta là một đứa
con hoang.
Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc
Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi

chất nổ chưa kiếm ra và chưa nổ .”

(No one seemed to know his father. He might
well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected
and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian
tradition)

3. Trong cuốn Hãy Cứu
Thánh Kinh Khỏi Phái Bảo Thủ
(Rescuing the Bible From Fundamentalism),
Giám mục Spong viết:

- Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả
Dê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả
đạo đức giả.
(There are passages in the Gospels that
portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even
hypocritical).

- Cuốn Kinh Thánh đã làm cho tôi đối
diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên
Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng
.

(A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers
me a God I cannot respect, much less worship)

4. Và khi
bàn về ơn cứu rỗi của Dê-su, trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi
Không Thì Chết
(Why Christianity Must Change Or Die), Giám mục John
Shelby Spong đã dành riêng chương 6 để viết về đề tài Dê-su Như Là Đấng
Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ
(Jesus as Rescuer: An Image That
Has To Go) [Bài này đã được dịch và đăng trên trang nhà Giao Điểm]. Trong
chương này, Giám Mục Spong viết như sau:

"Nhân
loại chúng ta không sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh ra trong tội
lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội tổ tông trong lễ rửa
tội. Chúng ta không phải là những tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu
chúng ta không rửa tội. Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình
trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước thời -Darwin và
một sự vô nghĩa sau thời -Darwin."


(We human
beings do not live in sin. We are not born in sin. We do not need to have
the stain of our original sin washed away in baptism. We are not fallen
creatures who will lose salvation if we are not baptized.. A savior who
restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition
and post-Darwinian nonsense)

Chúng ta
thấy ngay, từ vài kết quả nghiên cứu nêu trên trong số hàng trăm kết quả
nghiên cứu khác về nhân vật Dê-su, tất cả những niềm tin của các tín đồ Tin
Lành (những người tuyệt đối tin vào sự không thể sai lầm của Kinh Thánh),
bất kể là khoa học cộng với hàng trăm tác phẩm nghiên cứu về Kinh Thánh đã
bác bỏ tất cả những chuyện hoang đường do Ki Tô Giáo dựng lên quanh nhân vật
Dê-su, ngày nay đã không còn chỗ đứng trong giới trí thức và những người
hiểu biết. Như Russell Shorto đã nhận định, phần lớn các tín đồ Tin Lành
vẫn còn sống trong bóng tối của sự ngu si. Và những nhận định của Giám Mục
Spong ở trên đã chứng tỏ rằng những chuyện hoang đường như Dê-su sinh ra từ
một trinh nữ, Dê-su là con Thượng đế, Dê su là đấng cứu thế, vai trò “cứu
chuộc”, “cứu rỗi” của Dê-su v..v.. chỉ là những điều mê tín trước thời
Darwin đưa ra thuyết Tiến Hóa.



(Xin đọc tiếp Phần II...)



http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TinLanh/Hiemhoa1.php

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

WIDGET VÍ DỤ