Home » » CHUYỆN TÌNH T.T.KH

CHUYỆN TÌNH T.T.KH

Written By tâm tâm on Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012 | 15:44

Nhân tiện có topic của Bác namrau đăng bài "Chuyện Tình T.T.Kh. (1991) [WAV]"

Thiên Nga CD: Various Artists - Chuyện Tình T.T.Kh. [WAV]




Tracks list

1/ Hoa Trắng Thôi Cài Lên áo Tím - Vũ Khanh

2/ Khóc Người Trinh Nữ - Ý Lan

3/ Chuyện Tình T.T.Kh - Lưu Hồng

4/ Người Em Sầu Mộng - Việt Dzũng

5/ Hai Sắc Hoa Ti-Gôn Thiên Trang

6/ Màu Máu Ti-Gôn - Lưu Hồng

7/ Ghen - Vũ Khanh

8/ Mười Thương - Thiên Trang

9/ Vết Sầu - Ý Lan

10/ Bướm Trắng - Vũ Khanh



tôi sẽ đưa những bài viết từ những năm 2005 của các báo về T.T.Kh bí ẩn để các Bác ngâm cứu



Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh (22:01:00, 23/10/2005)



T.T.Kh là một câu chuyện chưa từng có trong lịch sử văn chương. Đó là
câu chuyện về một thi sĩ bí ẩn bỗng nhiên tung lên thi đàn mấy bài thơ
tình tuyệt tác làm ngẩn ngơ độc giả rồi lặng lẽ biến mất trong cái bàng
hoàng sửng sốt của người yêu thơ.



Bảy mươi năm đã trôi qua kể từ ngày xảy ra câu chuyện kỳ lạ ấy. Rất
nhiều người đã tìm cách vén lên bức màn bí ẩn của câu chuyện nhưng hầu
như chưa ai làm thỏa mãn độc giả. Còn người yêu thơ vẫn luôn khát khao
được biết sự thật: T.T.Kh là ai và đã vì ai mà sáng tác nên những áng
thơ tình đặc sắc đó?



Có một số nhân vật được các nhà sưu tầm đưa ra để giả định rằng đó là
T.T.Kh. Nam giới có, phụ nữ có. Trong số những "nghi can" có hai nhà thơ
nổi tiếng là Thâm Tâm và Nguyễn Bính. Độc giả tưởng như đã lần ra được
tung tích của con người kỳ lạ này nhưng sự thực không phải như vậy. Bởi
tất cả những thông tin đưa ra đều do lời người khác kể lại. Còn bản thân
những người như Thâm Tâm, Nguyễn Bính chưa bao giờ có phát biểu chính
thức nhận mình là T.T.Kh. Vì thế, tuy người kể cũng là người có uy tín
trong làng văn làng báo nhưng độc giả vẫn thấy mơ hồ khó tin. Việc tìm
kiếm con người thật của T.T.Kh thành ra vẫn rơi vào vòng lẩn quẩn trong
bao nhiêu năm qua, khiến câu chuyện thêm nhuốm màu huyền thoại.



Bằng cách phân tích các hình ảnh, biểu tượng, tình tiết văn học, thói
quen sử dụng ngôn ngữ trong thơ, trong truyện ngắn..., tác giả Trần Đình
Thu đưa ra một cách làm mới: so sánh đối chiếu với những người được cho
là T.T.Kh lâu nay để nhận xét xem ai là người phù hợp nhất. Đó là cách
làm khá đặc biệt so với những nhà sưu tầm khác trước đây chỉ hoàn toàn
dựa vào lời kể của nhân chứng. Vì thế, Thanh Niên xin giới thiệu loạt
bài viết trích từ bản thảo cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh chưa
xuất bản của tác giả để bạn đọc tham khảo.



Kỳ 1: Câu chuyện tình buồn 70 năm trước



Có thể nhiều bạn đọc đã biết, đã thuộc làu thơ T.T.Kh nhưng vẫn có một
số người khác chưa nắm rõ câu chuyện như thế nào. Vì thế, trước khi bước
vào phân tích lý giải, chúng tôi xin dẫn lại toàn bộ câu chuyện này một
cách có hệ thống. Câu chuyện T.T.Kh bắt đầu vào tháng 7/1937, khi tuần
báo Tiểu thuyết thứ bảy đăng một truyện ngắn mang tên Hoa ti gôn của nhà
văn Thanh Châu. Nội dung truyện ngắn được tóm tắt như sau:



Có một họa sĩ nghèo mới ra trường. Trong một lần đi tìm cảnh vẽ, chàng
đã gặp một thiếu nữ đang hái hoa ti gôn trong vườn. Từ đó, chàng đâm ra
mê người đẹp, luôn đạp xe vào làng để ngắm trộm nàng hái hoa.



Năm tháng qua đi, chàng họa sĩ trở nên nổi tiếng. Tranh vẽ của chàng bán
được giá rất cao. Họa sĩ trở nên giàu có. Một mùa đông, chàng đi vẽ ở
một vùng nọ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi, họa sĩ trông thấy một thiếu
phụ. Chàng ngờ ngợ như đã từng gặp người này ở đâu. Cuối cùng nhớ ra,
nàng chính là cô gái hái hoa ngày ấy. Trong khi khiêu vũ với nàng, chàng
nhắc lại chuyện cũ. Nàng vô cùng ngạc nhiên.



Nàng kể chuyện cuộc đời mình cho chàng nghe. Nàng lấy một người chồng
môn đăng hộ đối nhưng cuộc hôn nhân quá tẻ nhạt. Từ đó, nàng hay lui tới
chỗ họa sĩ trọ để chơi và để chàng vẽ cho một bức chân dung. Chuyện gì
đến đã đến. Một buổi sáng, hai người đi chơi ở một ngôi chùa trên đỉnh
núi, chàng đã tỏ nỗi lòng mình. Nàng đáp lại tình yêu của chàng.



Chàng bàn với nàng trốn đi Nhật để chung sống với nhau. Nàng nhận lời.
Chàng về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc thì nhận được thư nàng vào giờ
chót. Nàng từ chối chuyến đi vì không đủ can đảm vượt qua. Trong thư,
một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra. Chàng nhìn những nụ hoa hình quả tim
vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu, lặng lẽ hôn lên những cánh hoa và khóc.



Bốn năm sau, một hôm chàng nhìn thấy trên bàn mình một phong thư viền
đen. Mở ra xem thì đó là của người chồng nàng báo tin nàng đã chết.
Chàng đáp xe lửa đến nơi để đặt lên mộ nàng dây hoa quen thuộc. Từ đó,
chàng luôn mua hoa ti gôn về đặt trong phòng mình.



Hoa ti gôn là một truyện ngắn không có gì đặc sắc nhưng nhẹ nhàng và bay
bổng. Truyện ký thác một tâm sự khắc khoải, nhớ nhung hoài niệm. Hình
ảnh dây hoa ti gôn được lặp đi lặp lại nhiều lần như muốn khơi gợi một
điều gì đó không tiện nói ra. Tác giả của nó - nhà văn Thanh Châu, khi
đó là một chàng trai trẻ 25 tuổi, vừa quyết định bước vào nghiệp văn
chương. Chàng cũng vừa trải qua một chuyện tình buồn.



Hai tháng sau ngày Thanh Châu đăng truyện ngắn nói trên, một sự kiện đặc
biệt xảy ra. Vào tháng 9/1937, tòa soạn tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy
nhận được một bài thơ của một tác giả ký tên là T.T.Kh. Đó là bài Hai
sắc hoa ti gôn, được đăng vào ngày 23/9/1937.



Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu
thơ bởi những câu thơ quá da diết. Giới văn nghệ xôn xao. Gần hai tháng
sau, tòa soạn lại nhận được một bài thơ nữa. Bài thơ này có tựa đề là
Bài thơ thứ nhất dù đó là bài thơ thứ hai gửi đến. Bài này được đăng
trên số báo ngày 20/11/1937. Và một năm sau nữa, tòa soạn nhận thêm bài
Bài thơ cuối cùng. Bài này được đăng trên số báo ra ngày 30/10/1938.



Từ đó, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy không còn nhận thêm bài thơ nào của
con người bí ẩn này nữa. Ngược lại, có một bài thơ cũng ký tên T.T.Kh
gửi đến một tờ báo khác. Đó là Bài thơ đan áo.



Những bài thơ mang tên T.T.Kh đã làm cho độc giả bàng hoàng sửng sốt.
Nhưng tác giả của nó đã lặng lẽ rời bỏ văn đàn, không bao giờ xuất hiện ở
đâu nữa. Không ai biết một chút gì về con người bí ẩn này. Nghi án văn
học T.T.Kh từ đó bắt đầu...



Năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản Thi nhân Việt Nam lần đầu
tiên, T.T.Kh đã được đưa vào tập sách quan trọng này. Song song đó,
nhiều người lại liên tục công bố những thông tin về T.T.Kh. Nào Thâm
Tâm, nào Nguyễn Bính, nào em gái nhà thơ Tế Hanh, nào là Trần Thị
Khánh... Rất nhiều "ứng viên".



Câu chuyện về Thâm Tâm có khá nhiều người kể. Chẳng hạn Nguyễn Vỹ, một
người có mặt trong Thi nhân Việt Nam đã viết một bài dài trên Tạp chí
Phổ Thông vào những năm 1960. Ông Vỹ cho biết, một buổi tối trên đường
về nhà, ông gặp Thâm Tâm đang lang thang. Ông mời Thâm Tâm về nhà mình
uống rượu. Ngà ngà say, Thâm Tâm cao hứng kể chuyện tình của mình. Thâm
Tâm cho biết, người yêu của mình là một nữ sinh tên là Trần Thị Khánh.
Nàng đã có lần gợi ý Thâm Tâm đến nhà hỏi cưới nhưng chàng bảo sự nghiệp
chưa có gì. Bẵng đi một thời gian, một hôm chàng nhận được phong thư
báo tin nàng sắp lấy chồng. Đã bị người yêu bỏ đi lấy chồng, lại còn bị
đám bạn chế nhạo, Thâm Tâm đâm ra bị quê. Vì thế đã phải thức một đêm để
làm một bài thơ tựa đề là Hai sắc hoa ti gôn, ký tên T.T.Kh. Thâm Tâm
làm như vậy với dụng ý để các bạn của mình tin là của Khánh làm, cho
khỏi mang tiếng bị tình phụ. Sau đó, Thâm Tâm gửi bài thơ tới tòa soạn.
Về phần cô gái đó, sau khi đọc được bài thơ Hai sắc hoa ti gôn, liền
viết thư phản đối Thâm Tâm kịch liệt. Thâm Tâm bèn lấy những câu chữ
trong bức thư này để viết tiếp các bài thơ sau này, vẫn ký là T.T.Kh...



Ngược với Nguyễn Vỹ thì một số tác giả, chẳng hạn như Hoàng Tiến, lại
cho rằng chính cô Trần Thị Khánh, cô người yêu của Thâm Tâm đã sáng tác
ra những bài thơ ký tên T.T.Kh. Một số tác giả khác còn tiến thêm một
bước cụ thể hơn nữa khi cho rằng Trần Thị Khánh chính là em gái họ của
nhà thơ Tế Hanh...



Với Nguyễn Bính, không thấy có những câu chuyện cụ thể như trường hợp
của Thâm Tâm. Người ta chỉ dựa vào bài thơ Cô gái vườn Thanh đề tên tác
giả Nguyễn Bính để cho rằng Nguyễn Bính chính là T.T.Kh.



Kỳ sau: T.T.Kh có thể là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính không?



Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu xem liệu có thể tin rằng T.T.Kh là Thâm
Tâm hoặc Nguyễn Bính như một số tác giả đã khẳng định hay không.



Tác giả Hoài Việt, một người cầm bút trước năm 1945, từng quen biết với
hai thi sĩ này cho biết: Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân hồi đó
là ba thi sĩ chủ chốt trong một nhóm thơ được các văn hữu mệnh danh là
các nhà thơ xóm áo bào gốc liễu. Ba người tuổi tác xấp xỉ nhau, đều xuất
thân từ tầng lớp dân nghèo, không được học hành nhiều ở các trường lớp
chính quy, vì thế ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với họ hầu như
không có gì. Ngược lại họ là những người được học nhiều chữ Hán, chữ
Nôm. Cả ba người có lúc cùng ở trọ một nhà với nhau để viết văn, làm
báo. Những hoàn cảnh như trên đã ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của
nhau, hình thành nên một nhóm thơ có tên gọi như trên.



Ngoài những nét riêng biệt trong các tác phẩm của từng người thì nhóm
thơ này có một đặc điểm chung. Đó là các thành viên rất thích cái giọng
văn chương hiệp sĩ, ưa dùng hình ảnh những tráng sĩ lên đường thời Xuân
Thu Chiến Quốc. Những tráng sĩ mặc áo bào từ trên lưng ngựa nhảy xuống
đất, buộc ngựa vào gốc liễu, nghênh ngang bước vào tửu quán. Vì thế mà
thơ của họ chứa đựng cái chất tráng ca, cái khí phách ngang tàng của
những trang hảo hớn: "Chí lớn chưa về bàn tay không/Thì không bao giờ
nói trở lại/Ba năm mẹ già cũng đừng mong" (thơ Thâm Tâm), "Kinh Kha giữa
chợ sầu nghiêng chén/Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?/Mơ gì áp Tiết thiên
văn tự/Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây" (thơ Nguyễn Bính).



Nhận định của Hoài Việt như thế rất đúng với trường hợp của Thâm Tâm.
Chất giọng văn chương hiệp sĩ của ông tạo nên nét riêng biệt không ai có
được. Thơ ông là thứ thơ hùng tráng. Nếu có bi thì cũng là hùng bi:
"Ngươi chẳng thấy/Thao thao Hồng Hà vạn thuở chảy/Nước mạnh như thác,
một con thuyền/Ta lênh đênh hoài sầu biết mấy!" (Can trường hành), "Sông
Hồng chẳng phải xưa sông Dịch/Ta ghét hoài câu "nhất khứ hề"" (Vọng
nhân hành). Chất rắn rỏi này không chỉ thể hiện trong những bài thơ
thuộc thể hành mà cả khi Thâm Tâm làm những loại thơ khác.



Với Nguyễn Bính, ngoài cái phần chung với nhóm thơ trên mà ông ít nhiều
chịu ảnh hưởng của bạn bè, thể hiện trong vài trường hợp (chẳng hạn bài
Hành phương Nam) thì thơ Nguyễn Bính được bao trùm bởi cái chất quê, như
Hoài Thanh nhận định trong Thi nhân Việt Nam: "Ở Nguyễn Bính thì không
thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi
muốn nói Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm". Thơ
Nguyễn Bính phần lớn gần gũi với đời sống lam lũ quê mùa dù ông đang ở
thành thị hay thôn quê. Từ ngữ nhiều khi quá dân dã đến nỗi một số nhà
thơ thời ấy chê là ông làm hò vè: "Nuôi hai con lợn từ ngày xưa/Mẹ tôi
đã tính "Tết thì vừa"/Trữ gạo nếp thơm mo gói bó/Dọn nhà, dọn cửa, rửa
bàn thờ" (Tết của mẹ tôi). Ngay cả khi làm thơ tình thì Nguyễn Bính cũng
quê mùa chất phác như thế: "Lòng em như quán bán hàng/Dừng chân cho
khách qua đàng mà thôi/Lòng anh như mảng bè trôi/Chỉ về một bến chỉ xuôi
một chiều" (Em với anh). Cái chất dân dã quê mùa, pha lẫn với một ít
chất tráng ca, có lẽ ảnh hưởng từ Thâm Tâm, đã tạo nên một Nguyễn Bính
khó có thể lẫn vào ai.





Đó là những nét đặc thù trong thơ Thâm Tâm và Nguyễn Bính, hai tác giả
được nhiều người coi là T.T.Kh. Vậy còn thơ T.T.Kh thì sao? Ta hãy đọc
lại vài khổ thơ của tác giả này: "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở
dài trong lúc thấy tôi vui/Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ tình ta
cũng vỡ thôi" (Hai sắc hoa ti gôn), "Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ/Một
mùa thu cũ một lòng đau/Ba năm ví biết anh còn nhớ/Em đã câm lời có nói
đâu" (Bài thơ cuối cùng).



Bạn đọc thấy gì trong những câu thơ này? Rõ ràng đây là những câu thơ
nỗi lòng của một người con gái khuê các, từ nhỏ tới lớn có lẽ quen sống
trong cảnh mơ màng, không vướng bận chuyện đời thường. Nàng thích nhìn
gió ngắm trăng mỗi khi cô đơn trong lòng. Nàng lại đọc tiểu thuyết mỗi
khi buồn: "Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa
xưa". Gia cảnh của nàng rõ ràng là khá giả. Không phải thuộc loại "Tết
đến mẹ tôi vất vả nhiều/Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều" như Nguyễn Bính
hay "Sinh ta, cha ném bút rồi/Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân" như
Thâm Tâm.



Ta lướt qua những bài thơ của T.T.Kh và thấy, tác giả là người có thói
quen sử dụng từ ngữ hiện đại. Có lẽ tác giả được đi học trường Tây chứ
không phải đi học trường làng. Ta không tìm thấy những từ ngữ làng quê
hay từ ngữ có nguồn gốc Hán-Việt nhiều ở đây. Vả lại những câu thơ như
câu "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy tôi vui"
quá là hiện đại. Tình yêu trong thơ Thâm Tâm hoặc thơ Nguyễn Bính đâu có
như thế.



Ta cần nhớ rằng vào khoảng thời kỳ 1932-1938, văn xuôi cũng như thơ Việt
Nam còn đang cố gắng tìm một sự thay đổi căn bản. Về thơ, đó là sự thay
thế thể thơ Đường luật gò bó bằng thể thơ tự do, tức thơ mới. Đến năm
1936, cuộc cách mạng này coi như thành công mỹ mãn. Tuy nhiên có sự phân
hóa. Một số tác giả muốn cách tân một cách mạnh mẽ cả nội dung lẫn hình
thức trong khi số khác lại không muốn bị "Tây hóa" quá nhiều về mặt nội
dung mà chỉ muốn đổi mới chỉ hình thức thôi. Xuất hiện một lớp nhà thơ
"tân" bên cạnh những nhà thơ "cựu" vốn ít học chữ Tây. Văn chương của
hai tầng lớp này có một sự khác biệt rất dễ nhận ra. Nếu như Xuân Diệu
đạt đến đỉnh cao của sự ảnh hưởng thơ Pháp thì Thâm Tâm lại quay về với
hồn thơ Đường còn Nguyễn Bính thì chìm đắm trong kho tàng ca dao, dân ca
Việt Nam để góp phần tạo nên dòng thơ Việt.



Còn thơ T.T.Kh? Ngay cả Hoài Thanh vào năm 1942 cũng đã rất ngập ngừng
không dám xếp hẳn thơ T.T.Kh vào dòng thơ Việt. Cho nên, giữa thơ Thâm
Tâm, Nguyễn Bính và T.T.Kh không thể nào chung trong một dòng thơ được.
Thâm Tâm và Nguyễn Bính "cựu" quá trong khi T.T.Kh thì lại rất "tân".




Hai sắc hoa ti gôn





Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn

Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn

Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,

Tôi chờ ngườâi đến với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng

Dải đường xa vút bóng chiều phong,

Và phương trời thắm mờ sương, cát

Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi

Thở dài những lúc thấy tôi vui,

Bảo rằng: "Hoa dáng như tim vỡ,

Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !"

Thuở đó, nào tôi đã biết gì

Cánh hoa tan tác của sinh ly

Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng

Là chút lòng trong chẳng biến suy"

Đâu biết lần đi một lỡ làng

Dưới trời đau khổ chết yêu đương

Người xa xăm quá !- tôi buồn lắm

Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...

Từ đấy, thu rồi, thu, lại thu,

Lòng tôi còn giá đến bao giờ ?

Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...

Người ấy cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,

Mà từng thu chết, từng thu chết

Vẫn giấu trong tim bóng một người

Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết

Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa

Sắc hồng tựa trái tim tan vỡ.

Và đỏ như màu máu thắm pha !

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi

Một mùa thu trước rất xa xôi...

Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,

Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !

Tôi sợ chiều thu nhạt nắng mờ,

Chiều thu hoa đỏ rụng. Chiều thu

Gió về lặng lẽ chân mây vắng,

Người ấy ngang sông đứng ngóng đò

Nếu biết rằng tôi đã có chồng

Trời ơi ! Người ấy có buồn không?

Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ

Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ?

T.T.KH

Kỳ 3: T.T.Kh là “nàng” hay “chàng”?



Ta đã tìm hiểu qua về thơ T.T.Kh trong kỳ trước. Thật ra, ta thấy thơ
T.T.Kh nghiêng về dòng thơ ảnh hưởng thơ Pháp mà Thế Lữ đã khơi nguồn và
Xuân Diệu đẩy lên đến tận cùng hơn: "Hơn một loài hoa đã rụng
cành/Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh/Những luồng run rẩy rung rinh
lá.../Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh" (Thơ Xuân Diệu); "Ở lại vườn
Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi
trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành" (Thơ T.T.Kh).



Cũng là những câu thơ tả cảnh như thế, nhưng nó quá khác biệt khi đặt
bên cạnh thơ Thâm Tâm hay Nguyễn Bính: "Thu sang trên những cành
bàng/Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi/Hôm qua đã rụng một rồi/Lá theo
gió cuốn ra ngoài sơn thôn" (Thơ Nguyễn Bính), "Bừng sáng, xuân bay tang
tảng sương/Canh gà heo hút nẻo giang thôn/Chài ai gấp gấp giăng giăng
bạc/Tiếng mác qua giời, dịp sáo non" (Thơ Thâm Tâm).



Thơ T.T.Kh hiện đại từ ngôn ngữ cho đến hình ảnh. Nhà văn Thanh Châu đã
bỏ công tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ của những đối tượng liên quan và đi
đến nhận xét: thơ T.T.Kh không có những chữ như ly khách, cửa ải xa,
xóm thanh bình, trường thành, quan san, trường đình, thét roi, cô phụ,
đoạn trường như Thâm Tâm, không có những chữ như vương tơ, lão bộc, vật
đổi sao dời, quay tơ, guồng tơ, hận tình, buồng the như Nguyễn Bính.
Nhận xét này của Thanh Châu khá tỉ mỉ và chính xác, cho ta thấy sự khác
biệt về cách sử dụng từ ngữ giữa T.T.Kh và Thâm Tâm, Nguyễn Bính. Chúng
ta thấy thêm, ở Nguyễn Bính thường có xu hướng sử dụng từ ngữ địa phương
mỗi khi có điều kiện, chẳng hạn "giời" thay cho "trời", "giầu" thay cho
"trầu"... Như trong bài Cô gái vườn Thanh, Nguyễn Bính viết: "Vườn
Thanh qua đấy năm xưa/Trọ nhờ đêm ấy giời mưa tối giời". Đây là một thói
quen mà T.T.Kh không hề có.



Chúng ta thấy một điều rất quan trọng nữa về mặt ngôn ngữ trong thơ
T.T.Kh là tác giả hầu như chỉ sử dụng từ thuần Việt. Đây là một đặc điểm
cho thấy tác giả không hề hoặc rất ít được tiếp xúc với Hán học mà chủ
yếu được đào tạo theo quốc học. Về mặt sử dụng hình ảnh, cũng có những
điểm cho ta thấy sự khác biệt. Một ví dụ đơn giản: hình ảnh bông hoa ti
gôn. Ti gôn là một thứ hoa của phương Tây du nhập vào Việt Nam trước đó
không lâu. Vào thời ấy, nó là loài hoa của những gia đình trưởng giả. Nó
có thể quen thuộc với những thi sĩ hiện đại như Xuân Diệu, Huy Cận,
nhưng nó sẽ xa lạ với một nhà thơ chân quê như Nguyễn Bính hoặc một nhà
thơ áo bào gốc liễu như Thâm Tâm. Nếu cần dùng hình ảnh một loài hoa nào
đó để làm thơ thay cho người khác thì với Thâm Tâm, có lẽ ông sẽ dùng
hoa gạo, hoa lý, hoa xoan... còn với Nguyễn Bính thì ông sẽ dùng hoa
cải, hoa cà, hoa chanh, hoa mướp... để gợi cảm hứng. Thâm Tâm và Nguyễn
Bính quyết không bao giờ dùng thứ hoa ti gôn xa lạ ấy: "Hoa chanh nở
giữa vườn chanh/Thầy u mình với chúng mình chân quê" (Thơ Nguyễn Bính),
"Trăm giàn lý đỏ đã lên hoa/Tâm sự in như cảnh ác tà" (Thơ Thâm Tâm).



Thế nhưng hình ảnh trong thơ T.T.Kh thì lại khác. Nhiều hình ảnh trong
thơ T.T.Kh không thể có được trong thơ của Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính:
nhặt cánh hoa rơi, buồn quá xem tiểu thuyết, tiếng lá thu khô... Những
hình ảnh này rất "Tây", tiêu biểu cho một tầng lớp thị dân "chính cống"
chứ không phải "từ quê lên tỉnh" như Nguyễn Bính.



Đến đây, chúng tôi muốn đi vào điều cốt lõi hơn nữa. Một điều rất rõ là
khi đọc các bài thơ của T.T.Kh, người ta có cảm giác ngay lập tức tác
giả phải là một người phụ nữ. Thế nhưng như đã thấy, nhiều người vẫn cho
rằng T.T.Kh là đàn ông. Bởi vậy chúng ta cần tìm hiểu xem liệu có thể
xảy ra điều giả định ấy được không? Điều này cũng góp phần loại bỏ bớt
những "ứng viên" là nam giới.



Thật ra, nhiều câu thơ của T.T.Kh thể hiện rất rõ tính nữ trong đó. Đọc
kỹ những câu thơ của T.T.Kh, có những câu dường như chỉ là tác giả nữ
thì mới viết như thế: "Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi người ấy
có buồn không" (Hai sắc hoa ti gôn). Chúng ta phải thừa nhận điều này,
đàn ông và phụ nữ có cách nói, cách nghĩ khác nhau. Có những điều, đàn
ông nghĩ thế này nhưng phụ nữ sẽ nghĩ thế khác. Chẳng hạn người đàn ông
thường lo người mình yêu bị khổ còn phụ nữ sẽ lo người mình yêu bị buồn.
Cho nên là phụ nữ thì T.T.Kh mới viết câu: "Trời ơi người ấy có buồn
không". Ta tin rằng Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính sẽ không bao giờ viết câu
này nếu họ là tác giả của bài thơ. Trong ba bài thơ có khá nhiều câu thể
hiện cách nghĩ cách nói của người phụ nữ mà đàn ông không thể nghĩ và
nói: "Từ đấy, thu rồi, thu, lại thu/Lòng tôi còn giá đến bao giờ?/Chồng
tôi vẫn biết tôi thương nhớ.../Người ấy cho nên vẫn hững hờ". Đây là
những cảm nhận hết sức tinh tế của một người phụ nữ, hơn nữa là người
phụ nữ đã có chồng. Đàn ông không thể làm được những câu thơ này.



Chúng tôi muốn nói với bạn đọc điều này: thơ là tiếng nói của tâm hồn,
là sự thể hiện ra bằng ngôn ngữ những tâm tư tình cảm của con người. Nếu
là một người hóa thân thành người khác để làm thơ thì rất khó, ngoại
trừ đấy là thể loại truyện thơ. Đọc những vần thơ của T.T.Kh, ta thấy
tràn ngập trong đó những nỗi niềm tâm sự, những xót xa ngậm ngùi, những
buồn thương uất hận: "Tôi oán hờn anh mỗi phút giây/Tôi run sợ viết bởi
rồi đây/Nếu không yên được thì tôi chết/Đêm hỡi, làm sao tối thế này"
(Bài thơ cuối cùng), "Là giết đời nhau đấy phải không/Dưới giàn hoa máu
tiếng mưa rung/Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối
cùng" (Bài thơ cuối cùng), "Đâu biết lần đi một lỡ làng/Dưới trời gian
khổ chết yêu đương/Người xa xăm quá tôi buồn lắm/Trong một ngày vui pháo
nhuộm đường" (Hai sắc hoa ti gôn)...



Với những câu thơ này, làm sao có thể tin rằng do một người khác phái
"đóng vai" để tạo ra? Làm sao từ một câu chuyện tình phụ tầm thường nhạt
nhẽo giữa Thâm Tâm với một cô gái mang tên Trần Thị Khánh nào đó mà thi
sĩ viết nên được những câu thơ đớn đau thế này? Thật là ngây thơ khi
chúng ta tin rằng Thâm Tâm hay Nguyễn Bính có thể là tác giả của những
bài thơ mang tên T.T.Kh. T.T.Kh dứt khoát phải là một tác giả nữ.



Kỳ 4: Mối quan hệ giữa T.T.Kh và tác giả truyện ngắn Cập nhật cách đây 1 giờ 4 phút



T.T.Kh đã sáng tác nên những bài thơ tình bất hủ vì chuyện ngang trái
tình duyên. Điều này thì đã quá rõ. Nhưng ta cần biết ai là người đã làm
cho thi sĩ đớn đau đến tột cùng khiến phải thốt ra những lời thơ thấm
đẫm đầy nước mắt ấy? Đây là một câu hỏi quan trọng. Giải đáp được câu
hỏi này là ta có trong tay chiếc chìa khóa để có thể mở cánh cửa đi sâu
vào những ngóc ngách bí ẩn bên trong câu chuyện kỳ lạ này.



Hãy đọc lại bài thơ đầu tiên của T.T.Kh. Hai sắc hoa ti gôn là bài thơ
hay nhất trong ba bài thơ và là bài thơ mà tác giả viết ngay sau khi đọc
được truyện ngắn Hoa ti gôn. Điều dễ nhận thấy đầu tiên là bài thơ như
"họa" lại truyện ngắn, từ hình thức cho đến nội dung. Khởi đầu là cái
tựa: Hoa ti gôn - Hai sắc hoa ti gôn. Truyện ngắn mở đầu bằng hình ảnh
một ông họa sĩ già ngày nào cũng tỉ mẩn bên những cánh hoa: "Sáng nào
cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư
Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn". Chuyện tình thơ cũng bắt đầu
từ những kỷ niệm êm đềm với loài hoa có cái tên Tây ấy: "Một mùa thu
trước mỗi hoàng hôn/Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn/Nhuộm ánh nắng tà
qua mái tóc/Tôi chờ người đến với yêu đương".



T.T.Kh và Thanh Châu đã lấy cùng một loài hoa để khơi dòng tâm sự. Thứ
hoa dây leo có những cành nhỏ nhắn dễ thương trổ ra vô số nụ, năm cánh
chụm lại thành "hình quả tim", trong một hai ngày sẽ nở bung ra. Thế là
"quả tim vỡ". "Người ấy thường hay vuốt tóc tôi/Thở dài trong lúc thấy
tôi vui/Bảo rằng: " Hoa dáng như tim vỡ/Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi".



Hoa dáng như tim vỡ là một chi tiết quan trọng. Thật ra bây giờ khi loài
hoa này đã quá nổi tiếng thì nhìn nó, người ta có thể nghĩ đến hình
dáng quả tim vỡ làm nhiều mảnh nhưng vào thời điểm câu chuyện này chưa
xảy ra, khó có ai nghĩ đến điều này. Quan sát kỹ nụ hoa ti gôn ta thấy
rằng, thật khéo tưởng tượng thì mới nghĩ ra được như thế. Thế mà câu
chuyện của Thanh Châu và câu chuyện của T.T.Kh đều xoay quanh cái chi
tiết "quả tim vỡ" ấy. Không hiểu vì sao những nhân vật trong thơ và
trong truyện có cách nhìn giống nhau đến vậy? T.T.Kh nói rằng đó chẳng
qua chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên: "Buồn quá hôm nay xem tiểu
thuyết/Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa".



Như vậy là ta đoán nhầm? Vì T.T.Kh đã nói rõ rằng hai người không quen
biết gì nhau. Chẳng qua chỉ là sự tình cờ. Nhưng ta vẫn thấy có quá
nhiều băn khoăn. Vì lẽ gì cánh hoa ti gôn ấy lại ám ảnh cả hai người như
vậy?



Trong truyện ngắn, cánh hoa ti gôn từ chỗ là nguồn cảm hứng bao la của
chàng họa sĩ trẻ khi gặp người con gái cho đến chỗ là thông điệp của bi
kịch khi chàng nhận phong thư báo tang viền đen có ép một dây hoa ti gôn
nhỏ rơi ra. Trong bài thơ, cánh hoa ti gôn từ chỗ là niềm vui, niềm
mong đợi của người con gái: “Tôi chờ người đến với yêu đương” cho đến
chỗ kết thúc một mối tình: “Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ/Tựa trái tim
phai, tựa máu hồng”.



Bài thơ thứ nhất nối tiếp những điều mà Hai sắc hoa ti gôn chưa nói hết:
"Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi
ép nốt dòng dư lệ/Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên".



Bạn đọc hãy lưu ý đến những cánh hoa ti gôn. Không chỉ trong bài thơ
trước mới có mặt chúng, loài hoa này hầu như luôn hiện diện trong câu
chuyện tình buồn này. Lẽ ra ta nên gọi nghi án văn học này là nghi án
văn học hoa ti gôn. Hoa ti gôn - chính thứ hoa "sắc đỏ, sắc hồng, sắc
trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở" như lời tả trong
tiểu thuyết Gánh hàng hoa của nhà văn Khái Hưng mà Thanh Châu lấy làm đề
tựa cho truyện ngắn Hoa ti gôn mới là đầu dây mối nhợ của mọi chuyện.
Nếu không có hoa ti gôn, ta sẽ không bao giờ có những bài thơ tuyệt tác
của T.T.Kh, không bao giờ có được câu chuyện tình văn chương kỳ lạ này.





Nhưng ta hãy chú ý điều này: trong bài thơ thứ hai, T.T.Kh không còn
nhìn những cánh hoa ti gôn với vẻ lãng mạn u buồn của nó nữa. Nàng có vẻ
như giận người nhắc đến cánh hoa ti gôn: "Đang lúc lòng tôi muốn tạm
yên/Bỗng ai mang lại cánh hoa tim/Cho tôi ép nốt dòng dư lệ/Nhỏ xuống
thành thơ khóc chút duyên".



Chúng ta thấy hé lộ ra một điều không bình thường. Lúc trước nàng bảo,
ngồi buồn đọc báo Tiểu thuyết thứ bảy, bắt gặp truyện ngắn Hoa ti gôn,
thấy ai cũng có tâm trạng giống mình nên cảm xúc viết ra bài thơ gửi
đăng báo cho vơi bớt nỗi lòng, thế mà bây giờ lại có ý trách người viết
truyện.



Bạn đọc hỏi, có thấy nàng giận hờn trách móc chỗ nào đâu? Có đấy! Nàng
trách nhưng mà trách khéo lắm. Trách mà không có lời trách. Ta hãy đọc
tiếp: "Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ/Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ". Ý nàng
muốn nói rằng, còn gì đâu nữa, giờ mọi chuyện đã lỡ làng hết cả rồi,
tình tan nát như loài hoa tim vỡ rồi, người nhắc đến chuyện xưa làm gì
nữa.



Dường như nàng đang đối thoại với người viết truyện qua bài thơ. Nhưng
nàng đối thoại một cách rất khéo, khiến không ai nghi ngờ điều gì. Nhờ
tài hoa, nàng đã làm được điều đó mà không ai nhận thấy trong gần cả thế
kỷ qua. Đây là lời dặn của nàng: "Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá/Vì tôi
còn nhớ hẹn nhau xưa:/“Cố quên đi nhé câm mà nín/Đừng thở than bằng
những giọng thơ".



Nhưng thật không may. Bài thơ cuối cùng đã làm nàng lộ tẩy. Nàng không
thể giữ kín cuộc đối thoại: "Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly/Càng khơi
càng thấy lụy từng khi/Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy/Mà viết tình em
được ích gì?"



Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy! Bạn đọc đã thấy chưa! Thật là giấu đầu
hở đuôi. Nàng đã quên cả giữ ý tứ, đi trách một người mà nàng bảo là
không quen biết. Cái bọc đã không giấu nổi cây kim. Ấy là vì chuyện Bài
thơ đan áo mà chúng tôi sẽ nói ở sau làm cho nàng bực bội. Đến đây,
chúng ta thấy được một điều quan trọng: Hóa ra tác giả truyện ngắn Hoa
ti gôn không phải là người dưng. Bởi có mối quan hệ gì thì mới đi trách
người chứ!...




Bài thơ thứ nhất



Thuở trước hồn tôi phơi phới quá

Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương

Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại

Êm ái trao tôi một vết thương.

Tai ác ngờ đâu gió lại qua

Làm kinh giấc mộng những ngày hoa

Thổi tan tâm điệu du dương trước

Và tiễn người đi bến cát xa.

Ở lại vườn Thanh có một mình

Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh

Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo

Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.

Và một ngày kia tôi phải yêu

Cả chồng tôi nữa lúc đi theo

Những cô áo đỏ sang nhà khác

Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.

Từ đấy không mong không dám hẹn

Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm

Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ

Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.

Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên

Bỗng ai mang lại cánh hoa tim

Cho tôi ép nốt dòng dư lệ

Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.

Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ

Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ

Tóc úa giết dần đời thiếu phụ

Thì ai trông ngóng chả nên chờ.

Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá

Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:

"Cố quên đi nhé câm mà nín

Đừng thở than bằng những giọng thơ".

Tôi run sợ viết lặng im nghe

Tiếng lá thu khô xiết mặt hè

Như tiếng chân người len lén đến

Song đời nào dám gặp ai về.

Tuy thế tôi tin vẫn có người

Thiết tha theo đuổi nữa than ôi

Biết đâu tôi một tâm hồn héo

Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.



(Theo Thâm Tâm và T.T.Kh của Hoài Việt, có đối chiếu với T.T.Kh nàng là ai? của Thế Phong)

T.T.Kh

Kỳ 5: Ai là người yêu của T.T.Kh?



Thưa bạn đọc, chúng tôi đã có dịp nói chuyện với nhà văn Thanh Châu và
chỉ ra với ông việc T.T.Kh đã trách ông. Nhà văn cũng đồng ý với chúng
tôi rằng quả thật câu thơ của T.T.Kh có hàm ý như thế.



Đến đây, chúng tôi muốn tạm gác câu chuyện hoa ti gôn lại trong chốc lát
để chuyển qua chuyện Bài thơ đan áo. Bài thơ này nhiều người không chịu
thừa nhận là của T.T.Kh. Quả thật sự xuất hiện của nó cũng tương đối
bất thường. Thứ nhất là nó không đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy mà lại
đăng ở báo khác. Thứ hai là về hình thức, nó cũng khác ba bài thơ kia.
So sánh với ba bài kia, Bài thơ đan áo có vẻ thô vụng hơn nhiều. Đặc
biệt trong khi ba bài thơ của T.T.Kh đều là thơ bảy chữ thì Bài thơ đan
áo lại theo thể thơ lục bát. Thật là vô lý khi T.T.Kh đang rất điêu
luyện trong thể thơ bảy chữ lại nhảy qua thơ lục bát để rồi lúng túng
trong lối thơ này đến nỗi đôi chỗ vần không được nhuyễn. Chính những
vướng mắc trên đã khiến người ta nghi ngờ bài thơ này là của người khác
giả mạo T.T.Kh.



Thế nhưng T.T.Kh lại không hề lên tiếng cải chính mà ngược lại trong Bài
thơ cuối cùng nàng lại nhắc đến nó: "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho
khắp người đời thóc mách xem". Hiểu thế nào cho đúng về vấn đề này? Ai
là người đã viết Bài thơ đan áo? Chúng ta nhớ một điều, Bài thơ đan áo
ngoài những bất thường như nói trên còn có điểm khác biệt rất lớn với ba
bài thơ kia. Đó là tác giả không viết cho người ấy mà viết cho một
người chị nào đó: "Chị ơi, nếu chị đã yêu/Đã từng lỡ hái ít nhiều đau
thương".



Chi tiết này lại khá khớp với Bài thơ cuối cùng. Trong bài thơ đó,
T.T.Kh đã nhắc đến một người nào đó ngoài người ấy: "Chỉ có ba người đã
đọc riêng/Bài thơ đan áo của chồng em". Ba người ấy là ai? Phải chăng là
có mặt cả người chị trong Bài thơ đan áo?



Ở trên, chúng ta có nói đến mối quan hệ giữa tác giả truyện ngắn và tác
giả thơ. Qua phân tích cuộc "đối thoại", chúng ta đã thấy được phần nào
mối quan hệ "không phải người dưng" giữa họ. Tác giả truyện ngắn, tức
nhà văn Thanh Châu chính là nhân vật ai mà nàng đã trách "Trách ai mang
cánh "ti gôn" ấy/Mà viết tình em được ích gì". Chúng ta tiếp tục phân
tích thêm. Trước hết khẳng định Thanh Châu chính là nhân vật ai trong
các câu thơ. Nhưng trong thơ T.T.Kh, ngoài ai ra còn có thêm nhân vật
anh: "Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng". Vậy
nhân vật ai này và nhân vật anh trong câu thơ trên là hai người hay một
người?



Có thể có hai trường hợp: Ai là một người bạn của nàng, hoặc ai chính là
người yêu của nàng, tức ai chính là anh. Nếu xảy ra trường hợp đầu thì
Thanh Châu chỉ là người bạn của T.T.Kh, được biết đến chuyện tình duyên
ngang trái của nàng nên cảm hứng viết nên truyện Hoa ti gôn. Nếu xảy ra
trường hợp sau thì Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh.



Chúng ta chú ý, trong ba bài thơ, chỉ có Bài thơ cuối cùng là nàng đối
thoại trực tiếp với người yêu mình: "Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?".
Tại sao như vậy? Là vì lúc này nàng đang giận chàng. Nàng muốn nói
chuyện "đâu ra đấy" với chàng một lần cho xong. Chúng ta đọc thêm khổ
thơ thứ năm: "Từ đây anh hãy bán thơ anh/Còn để yên tôi với một mình".
Ta thấy lúc này nàng cự cãi với chàng một cách khá căng thẳng. Có lẽ
chàng vừa gây ra một lỗi lầm gì đó làm cho nàng giận. Liên hệ đến khổ
thơ thứ ba có câu "Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc
mách xem" thì ta sẽ hiểu ngay chuyện gì. Đó là chuyện Bài thơ đan áo,
chàng đã lấy nó đem "rao bán" làm cho nàng bực tức. "Rao bán" là từ mà
nàng ví von cho hả tức chứ thực sự là chàng đã để lọt bài thơ đó ra
ngoài. Bài thơ này vì một lẽ gì đó mà nàng không muốn cho ai đọc. Việc
đăng báo bài thơ này có lẽ gây nên điều gì hệ trọng lắm nên nàng đã hết
sức tức giận: "Là giết đời nhau đấy biết không".



Hãy để ý thêm chút nữa. Sau khi nói xong chuyện Bài thơ đan áo, nàng
liền quay sang chuyện những cánh hoa ti gôn: "Những cánh hoa lòng, hừ đã
ghét/Thì đem mà đổi lấy hư vinh". Chúng ta thấy rất rõ: người gây ra
chuyện Bài thơ đan áo cũng chính là người nhắc đến những cánh hoa ti
gôn. Trước thì nàng cố giấu nhưng bây giờ vì đang tức giận nên nhân nói
chuyện này nàng nói qua chuyện kia một thể luôn.



Như vậy thì nhân vật ai, người liên quan đến những cánh hoa ti gôn
(Trách ai mang cánh ti gôn ấy) và nhân vật anh, người yêu của nàng (Anh
hỡi tháng ngày xa quá nhỉ) chính là một.



Như vậy mối quan hệ là đã rõ. Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh.
Điều này cũng phù hợp với lời kể của nàng ở khổ thơ đầu trong Bài thơ
thứ nhất rằng người yêu nàng là một chàng văn nghệ sĩ: "Thuở trước hồn
tôi phơi phới quá/Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương/Nhưng nhà nghệ sĩ từ
đâu lại/ Êm ái trao tôi một vết thương".



Thật sự ta đã giải mã được vấn đề quan trọng là tìm ra người ấy của
T.T.Kh. Đến đây, chúng tôi muốn trở lại vấn đề ai đã viết Bài thơ đan
áo. Như trên đã phân tích, bài thơ này có một số điểm khác biệt so với
ba bài thơ kia về thể loại, về giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, có một đặc
điểm quan trọng nhất thì nó lại không khác, đó là phong cách sáng tác.
Bài thơ đan áo cũng được viết bởi một ngôn ngữ dung dị rất "T.T.Kh":
"Chị ơi nếu chị đã yêu/Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương". Chúng tôi
cho rằng, bài thơ này cũng là của T.T.Kh nhưng được viết trước ba bài
thơ kia rất lâu. Bạn đọc có thể thắc mắc: vì sao Bài thơ đan áo không
hay như mấy bài thơ kia. Đó là do hoàn cảnh sáng tác. Trước đây, T.T.Kh
chỉ sáng tác để gửi cho người chị nào đó của mình đọc nên có thể cảm xúc
không trào dâng bằng viết cho người mình yêu.



Kỳ 6: Ai có thể là T.T.Kh?



Bà Trần Thị Vân Chung

Quá trình lần theo dấu vết con người bí ẩn này, chúng ta đã đưa ra được
một số tiêu chí để xác định ai có thể là T.T.Kh. Thứ nhất, T.T.Kh phải
là một người phụ nữ. Thứ hai, T.T.Kh phải là người thân thiết với nhà
văn Thanh Châu. Cụ thể hơn, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh
Châu. Như vậy, ta phải loại bỏ tất cả các "ứng viên" là nam giới như
Thâm Tâm, Nguyễn Bính, J.Leiba... cùng một số "ứng viên" nữ như Trần Thị
Khánh...



Vậy còn lại ai sẽ là người phù hợp với T.T.Kh? Đến đây, có lẽ ta cần cho
nhân vật thật xuất hiện để đối chiếu. Trong số những người phụ nữ được
giả định trước đây, chỉ có một "ứng viên" duy nhất phù hợp với vị trí
của T.T.Kh theo tiêu chí nói trên. Đó chính là bà Trần Thị Vân Chung,
người được tác giả Thế Nhật phát hiện ra và tiết lộ trong cuốn sách
T.T.Kh, nàng là ai? Đây là nhân vật đã gây ra nhiều tranh cãi trên công
luận vào năm 1994.



Xin nhắc lại một số thông tin về bà Trần Thị Vân Chung. Bà sinh năm 1919
tại Thanh Hóa. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, lớn lên lập gia
đình với một người đỗ cử nhân luật, có lúc làm quan tri huyện, về sau
làm đến chức Tổng trưởng Quốc phòng trong chế độ Sài Gòn.



Về văn chương, bà Vân Chung là người thường hay làm thơ, viết văn với
bút danh Vân Nương, Tam Nương... Bà tham gia nhóm thơ Quỳnh Dao - nhóm
thơ của những người phụ nữ đài các trưởng giả lúc trước ở miền Nam,
thường làm thơ xướng họa với nhau như một sinh hoạt tinh thần. Nữ sĩ
Mộng Tuyết cũng là một trong những chủ soái của nhóm thơ này. Bà đã có
một số thơ đăng trên các báo ở Sài Gòn trước năm 1975. Năm 1986, bà cùng
các con xuất cảnh sang Pháp. Bà vẫn tiếp tục làm thơ đăng trên các tạp
chí tiếng Việt ở nước ngoài.



Năm 1994, khi cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? ra đời, nêu đích danh tên
tuổi bà Vân Chung, thì chính bà Vân Chung đã công khai lên tiếng phủ
nhận mình là T.T.Kh. Thư của bà từ Pháp gửi về được đăng tải trên Thanh
Niên và một số tờ báo khác. Ngoài ra có một số độc giả cũng viết bài gửi
đến báo, không tin bà Vân Chung chính là T.T.Kh. Điều này đã làm nhiều
người ngờ vực tính chân thực của cuốn sách nói trên. Bởi vì cuốn sách
được viết ra dựa trên sự tiết lộ vô tình của một người khác là bà Thư
Linh, người quen biết với bà Vân Chung sau năm 1975 chứ tác giả không có
thông tin trực tiếp.



Nhưng bên cạnh đó, một số tác giả lại ủng hộ việc cho rằng T.T.Kh chính
là Trần Thị Vân Chung. Chẳng hạn tác giả T.N trên Báo Tuổi Trẻ chủ nhật
ngày 2/10/1994 viết: "Đưa ra tên tuổi thật của T.T.Kh, với đầy đủ cuộc
đời, nguồn gốc. Một nghi án văn học đã quá lâu, nay lỡ biết rồi thì
không thể không công bố". Tác giả Ngọc Tình trên Báo Sài Gòn Giải Phóng
vào ngày 9.10.1994 cũng viết: "Cuối cùng bí mật đã được phát giác, tác
giả cuốn sách giải trình đầy đủ tư liệu hơn nửa thế kỷ qua". Báo Lao
Động số ra ngày 13/10/1994 viết: "Một nghi án văn học đã gần 60 năm
quanh một chùm thơ nổi tiếng của tác giả T.T.Kh. Đến nay, Thế Nhật với
những tư liệu và chứng cứ rõ ràng mới bật mí được câu chuyện tình lãng
mạn bậc nhất trong văn học Việt Nam này".



Các ý kiến của người quan tâm rất không thống nhất với nhau như vậy.
Riêng chúng tôi, khi xem xét lại tất cả các vấn đề, thật đáng ngạc nhiên
là chúng tôi thấy bà Vân Chung có một nhân thân phù hợp với T.T.Kh đến
kỳ lạ.



Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác
giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh
Châu xác nhận - một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người
trong cuộc. Đây là một điều tối quan trọng, đáp ứng tiêu chí cần phải có
của T.T.Kh (xin nhấn mạnh lại một lần nữa, bất cứ nhân vật nào, muốn là
"ứng viên" để vào vị trí T.T.Kh thì theo quan điểm của chúng tôi, người
đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu).



Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xã Thanh Hóa như bà Vân Chung,
gia đình thuộc dòng dõi quan lại nhưng đến thời của ông thì gia cảnh sa
sút. Ngược lại, gia đình bà Vân Chung lúc đó làm kinh doanh buôn bán,
kinh tế khá giả hơn rất nhiều.



Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp trò chuyện
với cô em của người bạn mình là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ
Hà Nội về Thanh Hóa. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một cuộc
tình đầy nước mắt về sau.



Trở về Thanh Hóa, hai người tiếp tục qua lại với nhau và tình cảm ngày
càng thắm thiết. Gia đình hai bên cũng đều biết việc này nhưng cuộc tình
duyên không đi đến đoạn kết vì vấn đề môn đăng hộ đối. Sau cú sốc này,
Thanh Châu ra Hà Nội sống, Vân Chung ở lại quê nhà, một thời gian sau
thì đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ trong Bài thơ thứ
nhất: "Ở lại vườn Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu
trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành".



Ra Hà Nội một thời gian, Thanh Châu nhận được tin tức từ gia đình nhắn
ra cho biết bà Vân Chung chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng. Câu thơ tiếp
theo của T.T.Kh viết đúng như hoàn cảnh của bà Vân Chung: "Và một ngày
kia tôi phải yêu/Cả chồng tôi nữa lúc đi theo/Những cô áo đỏ sang nhà
khác/Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều".



Mối tình giữa Thanh Châu và Vân Chung là một mối tình văn chương cao đẹp
vì cả hai người đều có tâm hồn văn nghệ sĩ. Truyện ngắn Hoa ti gôn của
Thanh Châu thể hiện đầy chất lãng mạn và những bài thơ của Vân Chung
viết sau này cũng thật lãng mạn mà chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc
trong kỳ tới để tiện so sánh với thơ T.T.Kh.



Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa vì đến
năm 1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đã cùng chồng vào Nam còn
Thanh Châu ở lại quê nhà. Mãi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam
giải phóng, Thanh Châu mới tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân.



Nhà văn Thanh Châu đã trực tiếp xác nhận chừng đó thông tin với chúng
tôi. Nhưng ông không đồng ý khi chúng tôi đặt vấn đề rằng T.T.Kh chính
là bà Trần Thị Vân Chung. Vì vậy, chúng ta hãy tiếp tục so sánh đối
chiếu.



Kỳ cuối: Sự phù hợp giữa Trần Thị Vân Chung và T.T.Kh



Chúng ta thấy, trước hết việc giả định Trần Thị Vân Chung chính là
T.T.Kh đã giải quyết được nhiều vướng mắc trong nghi án. Chẳng hạn chi
tiết "vườn Thanh" làm nhiều người tranh cãi kịch liệt từ bao năm nay sẽ
trở nên rất đơn giản khi đưa vào đây. Nếu chúng ta chấp nhận Vân Chung
là T.T.Kh thì vườn Thanh sẽ được hiểu đơn giản hơn: đó là một cách nói
hoa mỹ để chỉ thị xã Thanh Hóa, nơi mà hai người có nhiều kỷ niệm trong
thời gian quen biết nhau.

Chúng ta hãy xét về nhân thân bà Vân Chung để so sánh với T.T.Kh. Trong
phần phân tích thơ T.T.Kh, chúng ta đã đưa ra nhận định, tác giả này
phải là một người sinh trưởng trong một gia đình khá giả, thuộc tầng lớp
tân học. Điều này rất đúng với trường hợp của bà Vân Chung. Và Thanh
Châu cũng là một người tân học: trước học cao đẳng tiểu học Vinh, sau ra
Hà Nội học trường đạo.



Một điều quan trọng nữa là tuổi của "ứng viên". Theo xác nhận của chính
bà Vân Chung, thì bà sinh năm 1919, tính đến năm 1937 là bà đã 18 tuổi
tròn. Đó là tính theo tuổi Tây. Còn theo tuổi ta thì đã 19. Như vậy bà
hoàn toàn có thể lấy chồng hoặc chồng đi dạm hỏi vào trước năm 1937. Vậy
thì đến tháng 9/1937, nếu là T.T.Kh thì bà có thể viết trong Hai sắc
hoa ti gôn: "Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi! Người ấy có buồn
không".



Cũng cần nhắc lại là khi bà Vân Chung lấy chồng, ông Thanh Châu ở Hà Nội
chứ không ở quê nhà. Vì thế cho nên Vân Chung mới nghĩ rằng ông không
biết việc bà đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ "Nếu biết
rằng...".



Đến đây ta tạm dừng việc so sánh đối chiếu lại một chút để đọc lại những
trang viết của ông Thanh Châu. Liên quan đến nghi án này, Thanh Châu đã
viết cả thảy hai tác phẩm. Một là truyện ngắn Hoa ti gôn mà từ đó có
thơ của T.T.Kh "họa" lại. Hai là bài tùy bút Những cánh hoa tim vào năm
1939 để kết lại câu chuyện. Ta thấy gì trong những trang viết của Thanh
Châu?



Khi xa Vân Chung ra Hà Nội, Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình
ấy. Trong bài tùy bút Những cánh hoa tim đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy,
ông viết: "Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái
trong tình ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì
yêu". Đó chính là sự chua xót về mối tình giữa ông và Vân Chung mà ngày
nay ông đã xác nhận.



Vào thời gian này, tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh cũng vừa mới ra
đời. Đó là cuốn tiểu thuyết luận đề, có ý nghĩa đả phá những tập tục hôn
nhân gia đình phong kiến ngự trị ngàn năm trong xã hội Việt Nam. Thế
nhưng Nhất Linh cũng không sắp xếp nổi cho nhân vật Loan của mình trốn
đi với Dũng mà phải để cho hai người chia tay nhau, Loan lên xe hoa về
nhà chồng, Dũng cất bước ra đi chốn hải hồ. Ấy là vì lúc này hoàn cảnh
xã hội chưa cho phép nhà văn thực hiện cuộc cải cách quá mạnh mẽ như
vậy, dù là trong tiểu thuyết. Bởi quan niệm cổ xưa còn hết sức nặng nề.
Như thế để thấy rằng, vào thời kỳ 1935 - 1937, những cô gái dù tân học
đến mấy cũng rất khó có thể thoát ra được ngoài vòng cương tỏa của chế
độ gia đình phong kiến. Tình cảnh của Thanh Châu và Vân Chung có lẽ cũng
tương tự như tình cảnh của Dũng và Loan.



Trong truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu, nhân vật chính là họa sư Lê
đã rủ Mai Hạnh trốn đi Nhật để cùng nhau xây cuộc đời mới. Đó là lòng
khát khao của những người đang yêu trước cảnh ngang trái tình duyên. Tuy
nhiên, nhân vật Mai Hạnh không đủ can đảm thực hiện vì "em không phải
là loại đàn bà có thể vượt hết được những khó khăn như anh tưởng", vì
"em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em". Những chi
tiết, hình ảnh tiếp theo trong truyện ngắn mang đầy ẩn ý. Chẳng hạn như
chi tiết nhân vật Mai Hạnh chết đi, chi tiết dây hoa ti gôn trong thư
báo tang rơi ra, chi tiết họa sư Lê đặt bó hoa lên nấm mộ nàng... Những
chi tiết ấy mang đầy sự trách móc, hờn giận, đớn đau. Nửa phần muốn chôn
chặt tình yêu xuống đáy mồ sâu, nửa phần nhớ thương quay quắt cuồng dại
mãi không thôi. Ta tin rằng những nỗi niềm của nhân vật chính là nỗi
niềm của tác giả. Những hoài niệm, u uất của nhân vật về những "cánh hoa
tim vỡ" là của Thanh Châu.



Năm 1939, sau khi câu chuyện T.T.Kh đã đi qua, Thanh Châu cho đăng bài
tùy bút Những cánh hoa tim trên Tiểu thuyết thứ bảy. Bài tùy bút này,
một mặt ông phủ nhận mọi sự dính líu đến T.T.Kh, một mặt ông giãi bày
tâm sự của mình.



Chính ra Thanh Châu đã bị ám ảnh bởi những cánh hoa ti gôn khi ông viết
trong Những cánh hoa tim: "Một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy
trong tay và vò nát chúng nó đi trước một giàn hoa. Đó là thời kỳ tôi
ốm dậy, buổi chiều thường đi thơ thẩn trong sân". Ta nhớ rằng, tác phẩm
Hoa ti gôn là truyện ngắn nhưng tác phẩm Những cánh hoa tim là tùy bút.
Mà tùy bút là nói chuyện thật chứ không nói chuyện hư cấu. Thanh Châu đã
vò nát những cánh hoa ti gôn vì lẽ gì? Phải chăng vì nó đã từng là
"chứng nhân" một thời của tình yêu giữa ông và Vân Chung? Thanh Châu
viết tiếp trong bài: "Bỗng nhiên, nhìn những cánh hoa đỏ trong tay, tôi
nghĩ đến một quả tim rớm máu".



Trong những phần trước, chúng ta đã nhắc đến chuyện những cánh hoa ti
gôn. Giờ đây ta lại thấy rõ hơn chút nữa. Như vậy chính ra Thanh Châu là
người đầu tiên nhìn thấy bông hoa ti gôn có hình quả tim vỡ chứ không
phải nhân vật truyện ngắn họa sư Lê. Giữa Thanh Châu và Vân Chung có thể
đã có nhiều kỷ niệm về loài hoa "đỏ như màu máu thắm phai" này. Cho nên
Thanh Châu trong một đêm buồn bã nhớ nhung hoài niệm về mối tình xưa,
xót xa nghĩ lại những cánh hoa tàn úa thuở nào, đã không kìm nổi lòng
mình mà cầm bút viết nên truyện ngắn để giải tỏa cảm xúc, cũng là để gửi
về "vườn Thanh" cho người xưa.



Vào thời kỳ 1937, những cô gái có tâm hồn văn chương lãng mạn đều tìm
đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy. Vì thế truyện ngắn này đã đến tay Vân
Chung ngay lập tức. Đọc xong truyện ngắn, Vân Chung chắc chắn cũng đau
lòng không kém. Trong tình cảnh như thế, thì một người như Vân Chung
hiển nhiên phải làm thơ để gửi lại cho Thanh Châu. Và những bài thơ ấy,
rất có thể là những bài Hai sắc hoa ti gôn, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ
cuối cùng lắm chứ? Tại sao không?



Đến đây chúng tôi muốn trở lại với riêng bà Vân Chung. Trước đây có
người đưa ra một số "ứng viên" nữ, nhưng không thấy nhắc đến lý lịch văn
học của những người đó. Chúng ta nhớ rằng, nếu là T.T.Kh thì dứt khoát
phải là một người cầm bút. Ít ra là phải như bà Vân Chung, có thơ in
thành tập, có sinh hoạt văn học nơi này nơi kia, có thơ đăng báo...

Chúng tôi đã cố gắng sưu tầm được một ít thơ của bà Vân Chung để bạn đọc
có thể đánh giá chúng. Trước hết xin đọc vài câu thơ của bà Vân Chung
viết về mùa thu:

Nhớ những mùa thu trước

Êm cảnh thanh bình

Trăng ngà trải lụa thiên thanh

Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi

Thế rồi

Bão táp mưa sa

Trăng tàn hoa tạ

Mông mênh sầu ngập biển đời

Trời thu lộng gió để người sầu thương

(Bài thơ cuối thu, 1960)

Hơi may se cả bầu trời

Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều

Nhà ai một mái tịch liêu

Chìm trong làng vắng tiêu điều chiêm bao

(Vào thu - 1993)



Bạn đọc thấy thế nào về những câu thơ này? Có chút gì là của T.T.Kh không?

Một điều đặc biệt, bà Vân Chung luôn luôn làm thơ về mùa thu. Mười bài
thơ thì có đến năm bài bà nhắc đến mùa thu rồi. Dường như bà bị ám ảnh
bởi mùa thu. Đây cũng là một điểm chung với T.T.Kh.



Thơ của bà Vân Chung sau năm 1954 cho đến nay không phải là thơ hay. Hầu
hết đều bình thường. Chính vì vậy mà nhiều người cho rằng bà Vân Chung
không thể là T.T.Kh vì thơ bà không xứng tầm với thơ T.T.Kh. Lập luận
như thế là không đúng. Thật ra không có nhà thơ nào có thể làm thơ hay
suốt đời. Nhiều nhà thơ nổi tiếng nhưng về sau vẫn làm những câu thơ rất
tầm thường.



Một bài thơ hay phải gắn liền với một hoàn cảnh đặc biệt. Không có hoàn
cảnh đặc biệt thì khó có thể có thơ hay. Chẳng hạn Hàn Mặc Tử sẽ không
thể nào sáng tác được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ nếu người đẹp Hoàng Hoa
không gửi vào cho chàng một tấm hình chụp phong cảnh bến đò Vỹ Dạ lúc
chàng đang tuyệt vọng chán chường trên giường bệnh. Nếu Hữu Loan không
có nỗi đau về người vợ vắn số thì không thể nào có được bài thơ Màu tím
hoa sim để đời. Nếu Vân Chung là T.T.Kh thì cũng thế. Chỉ trong hoàn
cảnh tình duyên ngang trái lỡ làng với người yêu một cách đớn đau tột
cùng thì mới sáng tác được những câu thơ như viết bằng máu thịt ấy. Đó
là những tác phẩm đỉnh cao của một người làm thơ. Đó là tinh hoa tinh
huyết. Còn như Vân Chung sau này, sống một cuộc đời bình thường bên cạnh
người chồng giàu sang của mình, làm sao sáng tác được thơ hay, dù trước
đó có là T.T.Kh đi chăng nữa. Đó là chuyện bình thường và hợp lý.



Đến đây chúng tôi muốn thưa đôi lời với nhà thơ Vân Chung và nhà văn
Thanh Châu cùng quý bạn đọc. Loạt bài này cũng như cuốn sách Giải mã
nghi án văn học T.T.Kh sắp xuất bản của chúng tôi chỉ là những giả định.
Tuy nhiên, dù giả định nhưng nó vẫn gợi lại những vết thương cũ trong
lòng hai người. Đó là một điều đáng tiếc. Tuy vậy chúng tôi không thể
không viết lại câu chuyện này. Vì nó là khát khao của người yêu thơ,
muốn biết T.T.Kh là ai, vì ai mà để lại cho đời những vần thơ xao xuyến
cõi lòng ấy. Chính khi xưa, Hoài Thanh cũng đã từng nhắc trong Thi nhân
Việt Nam: "Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi
lòng. Ai biết "con người vườn Thanh" bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây
người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?". Cho
đến nay, đã qua bảy mươi năm, có lẽ người đã quyết định "ôm nỗi buồn
riêng về nơi chín suối" rồi. Vì thế giả định này nếu đúng chắc người
cũng không lên tiếng tự nhận mình là T.T.Kh. Vậy xin hãy xem đây như là
một việc làm vì lòng mến yêu con người đã để lại cho đời những vần thơ
say đắm ấy để có câu chuyện này.



Trần Đình Thu





Various Artists - Chuyện Tình T.T.Kh. (1991) [WAV]










http://www.hdvietnam.com/diendan/183-nhac-viet-nam/397137-thien-nga-cd-various-artists-chuyen.html

HDVIetnam

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

WIDGET VÍ DỤ