Home » » Xi-Nê Sài Gòn Trước 1975. Những Phim Đã Chiếu.

Xi-Nê Sài Gòn Trước 1975. Những Phim Đã Chiếu.

Written By tâm tâm on Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012 | 05:38


.









3:10
to Yuma (1957) phim cao bồi, Glenn Ford, Van Heflin. 3 giờ 10 phút
có chuyến xe lửa khởi hành đi Yuma, Glenn Ford trong vai một
tướng cướp bị viên cảnh sát trưởng bắt và sẽ thưởng 200
dollars cho ai đứng ra canh giữ Ford trong khi chờ đợi chuyến xe
lửa để giải đi Yuma. Van Heflin trong vai một nông dân có quá khứ
nặng nề đang cần tiền vì thất mùa chịu đảm nhận canh giữ
Ford trong khi đồng bọn của Ford đã hay tin và đang tìm cách
giải giây. Trong khi chờ đợi chuyến xe lửa 3 giờ 10 phút, cuộc
đối thoại giữa hai nhân vật cho thấy mỗi bên đều có bản chất
sáng và tối...


A
Yank in Vietnam (1964) phim chiến tranh, Marshall Thompson, Kiều
Chinh, Hoàng Vĩnh Lộc, Mỹ Tín, Đoàn Châu Mậu, Năm Châu, Kiều Hạnh,
Nguyễn Long và một số diễn viên Phi Luật Tân, phim còn có tên là
"Year of the Tiger" vì khi tung ra thị trường nhằm lúc Chiến Tranh
Việt Nam không được thuận lợi đối với công chúng Hoa Kỳ nên
Hollywood cho đổi tên phim. Marshall Thompson vừa là đạo diễn vừa
thủ vai chính của phim, một thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bị
Việt Cộng bắt sau khi trực thăng bị bắn hạ. Cùng thời gian đó
một bệnh viện bị tấn công và địch quân bắt đi ông bác sĩ và
người con gái, vợ ông thì tử nạn. Một người câm trước đó đã từng
được vị bác sĩ cứu giúp dẫn đường cho toán quân giải cứu thiếu
tá Mỹ, bác sĩ và cô con gái. Trong lúc loạn lạc khói lửa, vị
thiếu tá phải lòng cô gái. Phim có vài đặc điểm: nội ngoại cảnh
được quay hoàn toàn tại Việt Nam ngay trong thời kỳ chiến tranh và
dùng đến đơn vị quân đội Việt Nam Cộng Hòa thật để quay những
cảnh hành quân chiến trường. Cốt chuyện và thời điểm quay đều
xảy ra trước năm 1965 nên chỉ có cố vấn chứ chưa có sự hiện
diện của quân đội chiến đấu Hoa Kỳ.


Borsalino
(1970) phim găng tơ, Jean-Paul Belmondo. Alain Delon, Catherine Rouvel,
Michel Bouquet, Françoise Christophe, Corinne Marchand. Phim rất ăn
khách ở Sài Gòn năm xưa, một phần vì có sự góp mặt của hai
tài tử gạo cội Pháp Jean-Paul Belmondo và Alain Delon trong vai
hai tay du đảng trở thành anh chị bự rồi thanh toán các băng
đảng khác tại thành phố Marseilles trong những năm 30 để rồi
một trong hai người cũng phải bị loại. Phim có cảnh thật vui
nhộn khi một xe chở đầy mèo đói được thả ngay giữa chợ cá.
Jean-Paul Belmondo và Alain Delon ăn mặc thật bảnh bao theo kiểu
găng tơ có vắt cái khăn trắng trên cổ, mốt này được anh ca sĩ
Paolo Doãn bắt chước nhiệt tình mỗi khi đi ca hát.


Cherchez
L'Idole (1963) Phim ca nhạc, Dany Saval, Franck Fernandel, Mylène
Demongeot và một số rất đông ca nhạc sĩ nỗi tiếng nhất của
Pháp thời bấy giờ như Sylvie Vartan, Eddy Mitchell, Les Chaussettes
Noires, Charles Aznavour, Johnny Hallyday, chưa kể đến những người
danh tiếng chỉ góp mặt cho vui như Daniel Gélin, Juliette Gréco,
Marie Laforêt, Jean Marais, Françoise Sagan. Một anh chàng nghe lời
xúi giục của người yêu đi ăn cấp một viên ngọc quí rồi hối
hận từ bỏ người yêu đi tìm lại viên ngọc quí đã được giấu
trong một cây đàn guitar thuộc về một trong năm ca sĩ đang đi
trình diễn khắp nơi. Phim này được khán giả xi-nê trẻ thời đó
đón nhận một cách say mê và ngây ngất với nét trẻ đẹp duyên
dáng tuyệt trần của Sylvie Vartan và bài hát thật tình tứ "La
Plus Belle Pour Aller Danser". Chỉ cần mua vé vào xem Sylvie hát
là đáng tiền một cái vé rồi!


Cimarron
(1960) phim cao bồi, Glenn Ford, Maria Schell, Anne Baxter, Arthur
O'Connell, Russ Tamblyn, Vic Morrow. Vào năm 1889, ở tiểu bang
Oklahoma có cuộc đổ xô đi khẩn đất. Gia đình họ Cravet tạo nên
sự nghiệp với tờ báo Oklahoma Wigwam nhưng Glenn Ford, trong vai
người chồng, lúc nào cũng có máu phiêu lưu đã bỏ lở cơ hội
trở thành thống đốc khiến cho người vợ không khỏi buồn phiền.


Deux
Hommes dans la Ville (1973) phim xã hội, Jean Gabin, Alain Delon,
Michel Bouquet. Gino, một tù nhân thọ án tù 10 năm nhưng được thả
sớm hơn 2 năm nhờ vào hạnh kiểm tốt và lòng từ tâm của viên giáo
hóa đứng tuổi Germain vì ông này tin rằng con người có thể hoàn
lương. Gino cũng thật tâm muốn vậy để vui hưởng hạnh phúc bên
người vợ hiền đã từng chờ đợi mình suốt 10 năm trường. Nhưng
phần số của Gino không được may mắn, cây muốn lặng mà gió chẳng
đặng dừng, viên thanh tra Goitreau, người đã truy bắt, không tin vào
thiện ý của Gino nên lúc nào cũng theo dõi rình rập để có dịp
bắt lại. Rồi mây đen kéo đến, người vợ yêu quí của Gino qua đời
trong một tai nạn do người khác gây ra, Gino quá nóng giận và một
lần nửa vấp ngả. Lần này thật bi thảm vì đoạn đầu đài đang chờ
đợi Gino. Mới xem qua thì tưởng chừng như phim nói về những kẻ
xấu số có chạy trời cũng không khỏi nắng. Thật sự đây là một
thông điệp của đạo diễn José Giovanni phản ứng lại với án tử
hình, nên hay không nên chấm dứt một đời người và như trường hợp
của Gino thì quả là quá khắc khe. Pháp luật của các quốc gia trên
thế giới đã dùng án tử hình để làm gương và để loại bỏ hẳn
những phần tử xấu xa ra khỏi xã hội. Thế rồi có một quan điểm
cho rằng con người dù là nhân danh pháp luật vẫn không có quyền
thay thế thượng đế để cất đi mạng sống một con người. Quan
điểm này đã thuyết phục được một số quốc gia dẹp bỏ án tử
hình. Nhưng rồi gần đây tội phạm lại xảy ra quá nhiều nên án tử
hình phải được lập lại.


Easy
Rider (1969) phim xã hội, Peter Fonda, Dennis Hopper, Jack Nicholson,
Karen Black. 'Easy Rider' vào thập niên 60 nói theo tiếng lóng Hoa
Kỳ có nghĩa là một người đàn ông sống bám vào người tình
nhưng tựa phim này không diễn đạt theo ý nghĩa đó mà nói về
hai tay 'yên hùng xa lộ' đi giang hồ thật sự và không hề nhờ vả
đến đàn bà. Wyatt (Peter Fonda) và Billy (Dennis Hopper) thành
công một 'phi vụ' ma túy. Với số tiền có được, hai chàng yên
hùng ngựa sắt quyết định đi từ California sang Louisiana để vui
hưởng lể Mardi Gras. Wyatt còn có nick name là 'Captain America',
trang phục và chiêc mô tô của anh vẻ đầy quốc kỳ Mỹ, còn Billy
thì mặc cái áo da có dây tua tụa lòng thòng theo kiểu người da
đỏ. Trên con đường thiên lý từ miền tây sang miền đông Hoa Kỳ,
họ gặp đủ mọi gay cấn từ chuyện gia nhập vào cộng đồng Hippy
đến chuyện rắc rối với pháp luật. Cuối cùng họ cũng đến
đích vui chơi lể Mardi Gras nhưng còn những nguy hiểm chết người
khác đang chờ đợi họ. Có thể nói giới trẻ Hoa Kỳ sống trong
thời kỳ 70 đều đã xem qua phim này. Tuy không phải là một phim
vĩ đại theo kiểu những đại xuất phẩm của Hollywood nhưng Easy
Rider lại được chú ý hơn rất nhiều phim khác vì phim được xem
như một biểu tượng cho giai đoạn sôi động và phong phú nhất của
văn hóa Mỹ trong bối cảnh thời phản chiến. Phim gây ảnh hưởng
tận Âu Châu nên đã được mấy ông Pháp cho chiếu ở rạp Alliance
Française Sài Gòn và tôi đã xem phim này ở đây. Lúc đó, tôi vẫn
chưa hiểu tại sao Easy Rider lại được khán giả xi-nê năm châu
quan tâm đến như vậy. Vài ba năm sau, sống ở Mỹ, có dịp đi giang
hồ từ Florida sang California, từ miền đông sang miền tây rồi
ngược lại, đường đi mỗi bận khoảng 4.000 cây số và cũng trải
qua nhiều cam go, tôi mới thấy thật sự thấm thía với đề tài
của Easy Rider. Tôi đã lái xe đi một mình qua lại như thế mấy
lần, đã cho một cô gái Mỹ đi có giang và nhiều chuyện khác
không kém ly kỳ đã xảy ra, đã vui chơi hưởng lể Mardi Gras suốt
cả tuần liền ở New Orleans nên nghĩ lại mới thấy sự lôi cuốn
của phim. Khi thực hiện Easy Rider, Peter Fonda, Dennis Hopper và
Terry Southern muốn nói lên thái độ bất đồng của họ đối với
giới cầm quyền, với những gì xảy ra trong xã hội Hoa Kỳ và
nhất là khát vọng của thế hệ trẻ yêu nước luôn đi tìm một
chân lý sống trong đó có quan niệm yêu theo lối Hippy hoặc 'yêu
người, yêu đời' nói theo tựa một bài hát của cố nhạc sĩ Lê
Hựu Hà. Hollywood, ngoài kỹ nghệ làm phim giải trí́ ra, còn có
khuynh hướng luôn đi tìm những đề tài mới lạ kể cả những đề
tài đi ngược lại với trào lưu văn hóa đương thời nên gọi là
'counter culture' chẳng hạn như việc đưa những cảnh hút sách ma
túy lên màn ảnh rất thường xuyên do những nhân vật chính của
phim hành động. Đối với tôi, giới trẻ khi xem phim sẽ dễ bị
tác động rất nhiều và rất có thể sẽ bắt chước lối sống đó.
Nhưng Hoa Kỳ là một xứ dân chủ, quyền tự do phát biểu tư
tưởng được Hiến Pháp long trọng bảo vệ. Tuy vậy, trong quá khứ
đã có lần giới cầm quyền ra tay mạnh mẽ quạt tơi bời một số
nhà làm phim Hollywood, nhất là giới viết kịch bản, ̣đưa những
người có đầu óc thiên Cộng Sản vào 'blacklist' để áp lực
những nhà tư bản loại họ ra khỏi hàng ngủ giới làm phim
Hollywood vào đầu thập niên 50 khi thời kỳ 'Cold War' bùng nổ
cùng với chiến tranh Triều Tiên. Nói tóm lại, Easy Rider là một
phim thuộc loại 'road movie' phải có mặt trong mọi sưu tập phim
nhưng muốn thưởng thức trọn vẹn cần phải trải qua ít nhiều
lối sống ngao du lang bạt hay ít ra thấu hiểu nền văn hóa nhiều
màu sắc của Hoa Kỳ.


Europa
di Notte (1959) (Nuits d'Europe / Âu Châu Về Đêm) phim ca vũ nhạc
xiệc, Coccinelle, Channing Pollock, Carmen Sevilla, The Platters, The
Fraternity Brothers. Làm thế nào để xem được những màn trình diễn
nổi tiếng trong các hộp đêm ở Paris và các thành phố Âu Châu khác
mà không phải tốn rất nhiều tiền đi đến đó và mua vé thật đắt
đỏ? "Âu Châu Về Đêm" đã trả lời đúng ngay câu hỏi, chỉ cần mua
một vé xi-nê, khán giả Sài Gòn đã xem được những màn trình diễn
độc đáo lạ mắt của những nghệ sĩ lừng danh thế giới như
Coccinelle với màn thoát y vũ. Tôi không nhớ màn này có bị cắt xén
gì không, hình như đã bị cắt mất nguyên vẹn luôn nên thấy có trong
danh sách giới thiệu đầu phim nhưng hoàn toàn không có trong phim. Dù
sao thì khán giả vẫn thật hài lòng với những tiết mục khác của
ảo thuật gia Channing Pollock, Carmen Sevilla với vũ điệu flamenco
Tây Ban Nha, những ca sĩ nổi tiếng Domenico Modugno, The Platters,
Henri Salvador, The Fraternity với nhạc phẩm "Passion Flower" (Tout
l'Amour) mà sau này giới ca sĩ Sài Gòn đã hát đi hát lại hàng nhiều
năm liền. Phim này đã mở đầu cho một loạt phim kế tiếp có hình
thức tương tợ như "Thế Giới Về Đêm"... Ngay cả điện ảnh Việt
Nam cũng đóng góp với phim "Saigon By Night".


Faibles
Femmes (1959) phim tình cảm vui nhộn, Alain Delon, Mylène Demongeot,
Pascale Petit, Jacqueline Sassard, Anita Ruff. Một anh chàng đẹp trai
quá đắc đào có đến 3 nàng kiều nữ theo anh mê mệt. Thế nhưng anh
chàng hào hoa này chưa chịu dừng lại ở con số 3 mà còn muốn tiến
thêm đến con số 4 là một cô gái giàu có nước khác. Thế là 3 cô nàng
đầu tiên kết hợp với nhau và cùng đi đến quyết định hạ thủ anh
chàng bằng cách đầu độc... Cá nhân tôi cũng đã có lần lên đến con
số 3 và nhận thấy thực sự mình chẳng sung sướng hạnh phúc gì
cả. Có chăng chỉ là thỏa mãn cái tự ái (ego) vì đã là một tay chơi
(playboy) vậy thôi chứ thực ra nhiều lúc cảm thấy mình không khác
gì một con chó tháng bảy.


Fanny
(1961) phim tình cám, Leslie Caron, Charles Boyer, Horst Buchholtz,
Maurice Chevalier. Có một bài nhạc nói về người đi biển do nhạc
sĩ Trường Hải sáng tác tựa là "Tình Ca Người Đi Biển". Tôi
xin mượn tựa này và bỏ đi chử 'ca' để đặt tựa phim bằng tiếng
Việt cho "Fanny" vì phim này không có dính líu gì đến ca hát
cả. Người đi biển thì dù là thời chiến hay thời bình cũng
đều làm cho người ở lại nhuốm buồn không nhiều thì ít và
hạnh phúc gia đình xem như khó toàn vẹn. Fanny kể lại chuyện
một cô gái cùng tên sinh sống ở Marseilles, một thành phố biển
miền nam nước Pháp. Từ thuở còn thơ, Fanny và Marius đã thân
thiết rồi lớn lên yêu nhau nhưng Marius luôn có mộng hải hồ.
Fanny biết rỏ điều đó, vì tình yêu say đắm nên chấp nhận tất
cả. Thế rồi Marius đi theo tiếng gọi của sóng biển để lại cho
Fanny một bầu tâm sự. Cũng may có một ông bạn già của gia đình
đã rất tốt bụng đứng ra lấy Fanny làm vợ và nuôi đứa bé như
con ruột của mình. Rồi một ngày nọ, Marius xuất hiện trở
về... Tôi vẫn còn nhớ thuở phim Fanny được chiếu ở Sài Gòn,
một cô bạn của tôi thường hay nhắc lại cảnh Fanny tâm sự với
cha là đã hiến thân cho Marius, ông bèn bật một diêm quẹt rồi
nói "con thấy đó, đời người con gái giống như cái diêm quẹt
này, nó chỉ cháy có một lần mà thôi".


Gunfight
at the O.K. Corral (1957) phim cao bồi, Burt Lancaster, Kirk Douglas,
Rhonda Fleming, John Ireland, Earl Holliman, Dennis Hopper. Cảnh sát
trưởng huyền thoại Wyatt Earp khi về hưu sống với các em ở
Tombstone, Arizona lại gặp gia đình đang có tranh chấp với nhà
họ Clanton. Chuyện đến hồi phải giao đấu một mất một còn,
Wyatt được sự giúp sức của một tay cờ bạc và cũng là một tay
súng cừ khôi tuy hiện đang trong tình trạng sức khỏe suy yếu.
Phim mỡ đầu bằng bài hát cùng tựa do nhà soạn nhạc lừng danh
Dimitri Tiomkin sáng tác với giọng ca thật truyền cảm của
Frankie Laine. Nhiều năm trước, phim đã được chiếu đi chiếu lại
nhiều lần nhưng là ấn bản cũ. Đây là phim cuối cùng tôi xem ở
Việt Nam. Chỉ hơn 24 giờ sau, tôi đã đến Clark Air Base, Phi Luật
Tân vào hạ tuần tháng 4 năm 1975.


High
Noon (1952) (Le Train Sifflera Trois Fois) phim cao bồi, Gary Cooper,
Grace Kelly, Katy Jurado, LLoyd Bridges. Nếu chỉ được xem một phim
cao bồi mà thôi thì đây là phim phải xem. Gary Cooper, được mệnh
danh là ông vua cao bồi thời đó còn hay gọi là 'ga ri cọp',
đóng vai một viên cảnh sát trưởng vừa mới cưới vợ và lên xe đi
hưởng tuần trăng mật. Hôm đó cũng là ngày một tay cướp ra
khỏi tù và sẽ đi chuyến xe lửa đến đúng 12 giờ trưa. Đồng bọn
của hắn đang chờ ở nhà ga và sẽ kết hợp với nhau để thanh
toán viên cảnh sát trưởng trả thù cho việc bị bắt lúc trước.
Một bên là tình, một bên là nghỉa vụ, viên cảnh sát trưởng
nhất định quay xe trở lại để đối đầu với băng cướp, nhưng dân
làng lại quá hèn nhát, ai cũng quay lưng lại và gần như không
còn ai để phụ giúp. Đóng vai người vợ mới cưới là Grace Kelly
về sau này trở thành hoàng hậu của tiểu quốc Monaco. Phim có
bài hát bất hủ mang cùng tên mở đầu bằng "Cưng ơi đừng bỏ anh
trong ngày cưới của chúng ta hôm nay, chờ anh, hãy chờ anh nhé.
Anh không biết số phận nào đang chờ đợi anh, anh chỉ biết là
phải gan dạ và anh phải đối đầu với kẻ thù ghét anh hoặc nằm
dưới mộ như một kẻ hèn nhát...anh không sợ chết nhưng anh sẽ
làm gì đây nếu em bỏ anh... anh cần có em bên cạnh, hãy chờ
anh, hãy ráng chờ anh..."


Hon
Dansade en Sommar (1951) (Elle N'A Dansé Qu'un Seul Été / Tóc Em
Chưa Úa Nắng Hè) phim tình cảm, Edvin Adolphson, Ulla Jacobsson,
John Elfström, Folke Sundquist. Thành thật mà nói, tôi chưa được
xem phim này nhưng vẫn còn nhớ vì cái tựa dễ thương của nó và
là phim cấm trẻ em. Đây là một phim của Thụy Điển nên chuyện
cấm trẻ em là bình thường vì trong phim có nhiều màn tắm khỏa
thân của một chàng sinh viên và một cô thiếu nữ yêu nhau nhưng
gặp phải quá nhiều gian truân thử thách.


Imitation
General (1958) (Đại Tướng Giả Mạo) phim chiến tranh vui nhộn,
Glenn Ford, Red Buttons, Taina Elg, Dean Jones. Trong Đệ Nhị Thế
Chiến, thượng sĩ Savage giả làm một vị tướng vừa tử trận để
mong giữ vững tinh thần chiến hữu đang tìm cách thoát khỏi
vòng giây của quân lính Đức Quốc Xã. Savage có thể thành công
miễn sao tránh được một binh sĩ biết rất rỏ lai lịch của anh.


Imitation
of Life (1959) (Mirage de la Vie / Ảo Ảnh Cuộc Đời) phim tình
cảm, Lana Turner, John Gavin, Sandra Dee, Robert Alda, Susan Kohner,
Juanita Moore, Troy Donahue. Phim đã làm rơi lệ biết bao khán giả
Sài Gòn. Câu chuyện về một nữ tài tử da trắng kết bạn với
một phụ nữ da đen, hai người đều có con gái. Con gái của người
phụ nữ da đen, vì lai da trắng, nên không muốn ai biết tông tích
của mình, nhất là về người mẹ da màu. Bao nhiêu ngang trái
xảy ra từ đó...Tôi biết có nhiều khán giả thuê xe đưa cả gia
đình từ quê lên Sài Gòn để xem phim này.


Ivanhoe
(1952) phim kiếm hiệp thời Trung Cổ Âu Châu, Robert Taylor,
Elizabeth Taylor, Joan Fontaine, George Sanders. Hiệp sĩ Ivanhoe theo
con đường chính nghĩa hợp lực với Robin Hood cùng phò đưa vua
Richard trở lại ngai vàng đang bị một hoàng tử ác độc soán
ngôi. Tôi được xem "Ivanhoe" tại nhà hát của trường Taberd nơi tôi
theo học. Vào tuổi mới lớn thời còn học sinh trung học nhưng
khán giả đã biết chiêm ngưởng sắc đẹp phụ nữ, lúc nữ tài tử
Elizabeth Taylor xuất hiện trong phim thì cả hội trường ồ lên một
tiếng. Mà quả thật Elizabeth Taylor đẹp tuyệt vời. Chẳng những
có thể nói Elizabeth Taylor là nữ tài tử đẹp nhất từ xưa đến nay
mà vào thời điểm của phim này, sau khi đóng phim nhi đồng từ lúc
mới 10 tuổi, Elizabeth Taylor đi vào tuổi đẹp nhất như một bông
hoa vừa mới nở. Đây là phim thứ nhì, sau phim "Quo Vadis" (1951),
Liz đóng chung với nam tài tử Robert Taylor tuy cùng họ nhưng
không có bà con thân thích gì với nhau.


Jubal
(1956) phim cao bồi, Glenn Ford, Ernest Borgnine, Rod Steiger, Charles
Bronson. Phim đầy tình tiết éo le. Jubal là một chàng trai hào
hiệp và chân chính, anh được một chủ trang trại cứu vớt và tin
dùng, điều này khiến cho tay toán trưởng của trang trại đố kỵ
ghanh ghét. Ngoài ra, Jubal lại còn được người vợ trẻ của chủ
trang trại cảm mến. Không được đoái hoài vì Jubal một mực nhớ
ơn người đã cứu vớt mình, cô vợ trẻ bèn bày ra đủ chuyện.
Trong bối cảnh rối ren đó còn có thêm những trận chạm trán
giữa các trang trại và có một nhóm giáo phái đến nương náu
trên đồng cỏ của trang trại càng làm mọi chuyện gút mắt thêm.


La
Nuit Américaine (1973) (Day For Night) phim tình cảm, Jacqueline
Bisset, Valentina Cortese, Jean-Pierre Léaud, Dani, Jean-Pierre Aumont,
Alexandra Stewart, François Truffaut, Nathalie Baye. Có nhiều đặc
điểm để nói về phim này. Trước hết, đây là một phim nổi tiếng
để đời của François Truffaut đã đoạt 3 giải Oscar tại Hollywood
năm 1973: Phim Ngoại Quốc Hay Nhất, Valentina Cortese Nữ Tài Tử
Phụ Xuất Sắc Nhất, François Truffaut Đạo Diễn Xuất Sắc Nhất.
Điểm thứ nhì là tựa của phim. Nếu dùng tựa tiếng Anh 'Day For
Night' (Ngày Làm Đêm) thì sẽ dễ hiểu hơn nhưng nếu dùng tựa
tiếng Pháp nguyên thủy 'La Nuit Américaine' (Đêm Hoa Kỳ) sẽ rất
dễ hiểu sai hoặc tối nghĩa. Vậy Đêm Hoa Kỳ hay Ngày Làm Đêm là
gì? Đó là một kỹ thuật quay phim ban ngày cho những cảnh ban
đêm bằng cách đóng ống kính nhỏ lại để cho hình ảnh thiếu
sáng (underexposed). Điểm thứ ba, Truffaut đưa ra cốt chuyện độc
đáo, một cuốn phim trong một cuốn phim, những gì xảy ra nơi phim
trường có khi còn éo le hơn cả éo le của phim đang quay.


Le
Genou de Claire (1970) (Claire's Knee) phim tâm lý, Jean-Claude
Brialy, Aurora Cornu, Béatrice Romand, Laurence de Monaghan. Mọi sự
trên đời này luôn được thích hay bị chê. "Le Genou de Claire" không
tránh khỏi tình trạng đó. Phe chê thì cho rằng phim này lòng
vòng không nói lên điều gì thiết thực. Tôi ở bên phe khen ngợi
đạo diễn Eric Rohmer đã đưa ra một chủ đề rất đáng chú ý. Tuy
có một vài điểm không hoàn toàn đồng ý với đạo diễn nhưng sau
khi tìm hiểu rỏ hơn về tâm lý xã hội Pháp, tôi cho rằng rất
chấp nhận được quan điểm của phim. Nhà ngoại giao trẻ Jérôme
sắp sửa lập gia đình, anh trở về vùng hồ núi Annecy để bán
căn nhà. Tại đây, anh gặp lại một cô bạn thân thiết là văn sĩ
đang cư ngụ trong một gia đình có hai cô con gái trẻ. Trước tiên,
anh gặp cô em Laura trước, cô bé đem lòng thương mến nhưng khi
biết anh sắp lấy vợ nên thối thoát. Kế tiếp, anh gặp cô chị
là Claire với đường nét thanh nhã khiến anh để ý không nguôi
mặc dù Claire đã có bồ. Đặc biệt, Jérôme luôn bị ám ảnh bởi
cái đầu gối thon nhỏ xinh xắn của Claire và luôn mong muốn có
dịp được sờ vào nơi mà anh cho là gợi cảm bậc nhất của một
người con gái. Jérôme tâm sự là sờ được và để cho sờ không
phải là chuyện dễ... Phim được nhiều giải thưởng và là một
phim Pháp vốn hay nói nhiều lại được khán giả Hoa Kỳ ưa thích.
Tôi đã có nhiều dịp tiếp xúc với các phụ nữ Hoa Kỳ và hơi
ngạc nhiên là họ đều đã xem và thich "Claire's Knee".


Les
Choses de la Vie (1970) phim tình cảm, Michel Piccoli, Romy
Schneider, Léa Massari. Pierre, một kiến trúc sư trung niên đang
lái xe trên một con đường làng thì gặp tai nạn. Nằm trên bải
cỏ hấp hối, ông hồi tưởng lại đoạn đường đời khá trắc trở
đã đi qua: người vợ cũ, thằng con trai, và cô tình nhân quá ghen
tuông. Pierre vừa gửi xong một bức thư tuyệt tình nhưng lại cảm
thấy hối tiếc nên cố chạy nhanh hầu kịp chặn bức thư đó,
chẳng may lại gặp nạn...


Les
Félins (1964) (Joy House) phim tâm lý xã hội, Alain Delon, Jane
Fonda, Lola Albright. Phim do đạo diễn Pháp kỳ cựu René Clément
thực hiện. Marc là một gả du thủ mén nhờ có dáng bảnh bao đẹp
trai nên thường hay hào hoa với phái đẹp, không ngờ lại vớ phải
một kiều nữ đã có chủ lại là hạng găng tơ thứ dữ nên phải chạy
trốn. Marc tưởng đã gặp may mắn khi được một mệnh phụ Hoa Kỳ
và cô cháu gái thu nhận làm tài xế riêng. Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ
dừa. Giờ đây, Marc lại phải đương đầu với tình thế mới không kém
phần ly kỳ. Tôi được xem phim này ở đơn vị Công Binh, phim của
quân đội Hoa Kỳ nên không có phụ đề Việt ngữ. Về sau, xem lại
phim này ở rạp Rex với phần phụ đề đầy đủ nên hiểu rỏ thêm
tình tiết. Tuy là phim đen trắng nhưng giới phê bình đã ca ngợi góc
cạnh thu hình tuyệt hảo làm cho phim càng thêm hấp dẫn. Phần nhạc
phim do Lalo Schifrin (Mission: Impossible) đảm trách khiến cho khán
giả khi xem xong phim vẫn còn âm hường đâu đó.


Liane,
das Mädchen aus dem Urwald (1956) (Liane La Sauvageonne / Liane Cô Gái
Rừng Xanh) phim phiêu lưu mạo hiễm, Marion Michael, Hardy Krüger.
Tôi không chắc đây là cái tựa phim mà khi xưa các rạp xi-nê Sài
Gòn dùng hay không, nhưng nếu dịch sát nghĩa thì cũng vậy thôi.
Phim của Tây Đức rất hấp dẫn cho cánh đàn ông vì Liane sống
trong rừng xanh ở Phi Châu chỉ mặc có miếng vải nhỏ che phía
dưới còn ngực thì luôn để trần, thỉnh thoảng bị làn tóc dài
che lại. Liane cứu phóng viên người Đức bị nạn và được anh này
đưa về Đức. Mọi chuyện rắc rối bắt đầu xảy ra vì có người
không muốn Liane còn sống...


Parrish
(1961) phim tình cảm, Troy Donahue, Claudette Colbert, Karl Malden,
Dean Jagger, Connie Stevens, Diane McBain, Sharon Hugueny. Câu chuyện
xoay quanh anh chàng thanh niên Parrish đẹp trai, đi đâu cũng được
các cô gái vùng trồng thuốc lá Connecticut River Valley để ý và
chiếu cố. Connie Stevens thủ vai một cô gái xinh đẹp nhưng có
nhiều quá khứ, không được trong sáng như Sharon Hugueny trong vai
một cô gái trẻ trung hơn. Phim có bài nhạc đệm rất hay khiến
cho khán giả sau khi xem phim vẫn còn cảm giác dễ chịu lưu
luyến.


Per
un Pugno di Dollari (1964) (A Fistful of Dollars / Pour une Poignée de
Dollars) phim cao bồi, Clint Eastwood, Marianne Koch, Gian Maria
Volontè, José Calvo. Đầu thập niên 60, phim cao bồi không còn ăn
khách đối với khán giả Hoa Kỳ nên Hollywood lơi dần việc sản
xuất phim loại này. Trong khi đó, khán giả Âu Châu vẫn còn ưa
chuộng nên một số nhà làm phim Ý đã cho ra đời những phim cao bồi
cây nhà lá vườn, tất cả đều của Âu Châu từ đạo diễn, tài tử,
cốt chuyện, nội cảnh, ngoại cảnh. Vì thế khi xem phim, ngoài sự
nhàm chán vì rập theo khuôn mẫu của Hollywood, chắc chắn khán giả
nhận ra sự khác biệt đôi khi đến buồn cười. Những phim Ý này
được gọi một cách ví von là 'spaghetti westerns' (cao bồi mì Ý).
Thế rồi đạo diễn Ý Sergio Leone với phim "Per Un Pugno di Dollari"
đã làm thay đổi hẳn khuôn mặt của loại phim cao bồi từ đó trở
đi. Phim được phỏng theo "Yojimbo", một kiệt tác phẩm của đạo
diễn trứ danh Nhật Bản Akira Kurosawa, kể lại chuyện một tay
samurai đơn thân đến một làng nọ đang có tranh chấp giữa hai băng
đảng rồi dùng tài trí khiến cho hai băng đảng tự tiêu diệt lẩn
nhau để rồi cuối cùng tay samurai ra đi thủ lợi với một số tiền
lớn lao. Sergio Leone thay thế tay samurai bằng một tay súng giang
hồ cưởi ngựa đến một thị trấn nọ. Thế là có được một cốt
chuyện ly kỳ hấp dẩn. Nhưng cốt chuyện không thôi chưa phải là
cái nổi bật của phim, Sergio Leone đã đưa vào phim những nét mới
lạ mà các phim cao bồi từ trước chưa có. Trước tiên, người hùng
của phim không còn đạo mạo nửa và cũng tham tiền như ai. Phim cao
bồi của Hollywood tuy có bắn súng nhưng vẫn có một qui luật ngầm
chỉ cho phép phô diễn bạo lực tới một giới hạn nào đó, đạo đức
và luân lý vẫn là chuẩn. Phim của Sergio Leone và các loạt phim
cao bồi spaghetti về sau này cho bắn giết loạn lên miễn là đừng
bắn giết dân lành vô tội. Về phần kỹ thuật điện ảnh, "Per un
Pugno di Dollari" áp dụng những lối thu hình ảnh thật rộng và cực
cận mới lạ cho thấy thật rỏ nét mặt của các nhân vật chính,
cái nhíu mắt, cái cắn răng với điếu xì gà nhỏ trên môi, tiếng
bước đi đều đặn chậm rải của đôi giày bốt da có thêm tiếng khua
của cái sao đinh thúc ngựa là cả một sự sắp xếp tỉ mỉ thu hút
khán giả đến mức cực đỉnh. Chưa hết, lại còn phần nhạc đệm
độc đáo từ giai điệu đến lối tấu nhạc chuyên xữ dụng những
nhạc khí có âm thanh ru hồn hoặc căng thẳng sống động làm cho khán
giả sau khi xem phim vẫn còn nhớ mãi những pha then chốt. Phải
nói đến công lao của Ennio Morricone đã soạn nhạc thật đặc sắc
cho phim. Người hùng, nhân vật chính của phim này cũng như của hai
phim kế tiếp "Per Qualche Dollaro in più" (For a Few Dollars More),
"Il Buono, il Brutto, il Cattivo" (The Good, the Bad, the Ugly) trong
Trilogy (bộ phim 3 tập) đều không có tên và điểm này được quảng
cáo rầm rộ tạo thêm sự mới lạ. Tuy nhiên, khi tung phim này vào
thị trường Hoa Kỳ mãi đến ba năm sau, giới phát hành sợ gặp phải
chê bai nên cho đổi tên những người làm phim thành tên Mỹ như
Sergio Leone thành Bob Robertson, Ennio Morricone thành Dan Savio. Không
ngờ phim này lại quá thành công và đã đưa tài tử Hoa Kỳ Clint
Eastwood lên đài danh vọng. Khán giả Sài Gòn thời đó đón nhận phim
cao bồi này tương đối khá nồng nhiệt và cảm thấy có gì mới lạ
hơn những phim cao bồi khác đã được xem. Tài tử Clint Eastwood đã
gây được sự chú ý đặc biệt. Riêng cá nhân tôi thuở đó vẫn không
nhớ rỏ khuôn mặt của tài tử này nên về sau nhầm lẩn với khuôn
mặt của tài tử Franco Nero trong vai Django.


Pocketful
of Miracles (1961) phim xã hội vui nhộn, Glenn Ford, Bette Davis,
Hope Lange, Arthur O'Connell, Peter Falk, Ann-Margret. Bà lảo bán
táo dạo Annie cho con gái đi du học ở Âu Châu từ lúc nó còn
bé. Nay cô gái đã lớn và sắp thành hôn với một công tử quí
tộc Tây Ban Nha. Làm thế nào bây giờ? Bà Annie bèn nhờ đến Dave
the Dude, một tay găng tơ hào hoa, giúp đở bà giả làm một bà
triệu phú lừng danh để cho cô con gái khỏi phải mất mặt với
nhà chồng.


Rashomon
(1950) (Lã Sanh Môn) phim tâm lý xã hội, Toshiro Mifune, Masayuki
Mori, Machiko Kyo, Takashi Shimura. Đây là một trong những phim để
đời của đạo diễn Nhật Akira Kurosawa. Tài tử ruột của ông là
Toshiro Mifune thủ vai một tên thảo khấu chặn đường hành hung vợ
chồng một hiệp sĩ lúc họ đi ngang qua một khu rừng. Chuyện xảy
ra dẫn đến cái chết của người hiệp sĩ, tên cướp bị bắt và bị
đem ra tòa án xét xữ nhưng sự thật không phải dễ dàng được sáng
tỏ. Mỗi người liên quan đến vụ án: tên cướp, người vợ, gả tiều
phu mục kích hiện trường, luôn cả hồn của người hiệp sĩ được
một bà đồng bóng gọi về đều kể lại sự việc mỗi người một
lối khác nhau. Đâu là sự thật? Đạo diễn kỳ tài đã xữ dụng rất
nhiều kỹ thuật điện ảnh cho phim, ông còn cho pha mực đen vào
nước để làm cho cảnh mưa to càng thêm phần bi thảm. Phim đoạt
giải Oscar Phim Ngoại Quốc Hay Nhất.


Sois
Belle... et Tais-Toi! (1957) phim xã hội, Jean-Paul Belmondo, Alain
Delon, Mylène Demongeot, Henri Vidal, Roger Hanin, Darry Cowl. Virginie
là một thiếu nữ xinh đẹp gợi cảm vừa trốn khỏi trại giáo
hóa rồi gia nhập lại đám thanh thiếu niên lêu lỏng làm chuyện
mờ ám... Câu chuyện chẳng có gì đáng nói hoặc phải có sống
ở xã hội Pháp thì mới thấy phim có ý nghĩa. Dù sao, ở vào
thời điểm những năm xưa, khán giả Sài Gòn khá dễ tính, miễn
có ngắm được người đẹp Mylène Demongeot cũn cỡn là đủ rồi.
Ngoài ra, phim còn có sự góp mặt của các tài tử Pháp về sau
này rất nổi tiếng như Jean-Paul Belmondo, Alain Delon.


Summer
of '42 (1971) phim tình cảm, Jennifer O'Neill, Gary Grimes. Phim rất
ăn khách một dạo ở Sài Gòn được cả giới nam lẩn nữ khán
giả ưa chuộng. Trong bối cảnh hậu phương của Đệ Nhị Thế Chiến,
những cậu bé tuổi mới lớn vui chơi với các bạn trai gái đồng
lứa nhưng có một cậu trai lại phải lòng yêu thương một phụ nữ
lớn tuổi hơn có chồng, người ấy đã lên đường chinh chiến ở
tận một phương trời xa. Thế rồi một hôm, bức thư đen tối báo
tin dữ đến với người phụ nữ. Quá cô đơn và cần một niềm an
ủi, người phụ nữ đã ngã vào vòng tay của cậu thiếu niên và
cho cậu ta một mùa hè nhớ đời. Nhạc đệm của phim thật truyền
cảm do nhạc sĩ Michel Legrand sáng tác đoạt giải Oscar Nhạc Phim
Hay Nhất năm 1972.


The
Fastest Gun Alive (1956) (Bắn Chậm Thì Chết) phim cao bồi, Glenn
Ford, Jeanne Crain, Broderick Crawford, Russ Tamblyn. Một tay súng cừ
khôi giải nghệ để sống một cuộc đời bình dị bên người vợ
hiền. Dân trong làng đồng lòng trợ giúp ý nguyện của anh nhưng
có một tên đầu đảng của băng cướp nhất quyết thách anh đấu
súng, bằng không hắn sẽ cho đốt phá thiêu hủy cả làng.


The
Four Horsemen of the Apocalypse (1962) phim xã hội, Glenn Ford,
Ingrid Thulin, Charles Boyer, Lee J. Cobb, Yvette Mimieux, Karlheinz
Böhm, Paul Henreid. Câu chuyện về hai gia đình rất thân thiết với
nhau nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh đã trở thành đối nghịch.
Gia đình Desnoyers và Von Hartrott cùng sinh sống ở Á Căn Đình
và trở thành họ hàng với nhau. Thế rồi Đệ Nhị Thế Chiến
bùng nổ, gia đình Von Hartrott trở về Đức, người cha trở thành
một vị tướng Đức Quốc xã và người con Heinrich là một sĩ quan
SS phụ trách cai quản vùng Paris. Gia đình Desnoyers trở thành
công dân Á Căn Đình rồi sau đó cũng di chuyển về vùng Paris. Con
trai Julio vẫn là một tay ăn chơi trong khi em gái là Chichi đi
theo kháng chiến Pháp, bị Gestapo bắt và tra tấn đến chết.
Julio lúc bấy giờ mới cảm thấy cần phải dấn thân đi theo kháng
chiến Pháp. Với bộ gió ăn chơi, Julio có nhiều cơ hội để thu
thập tin tức và nhất là mới có thể chạm mặt được Heinrich...


The
Guns of Navarone (1961) (Les Canons de Navarone) phim chiến tranh,
Gregory Peck, David Niven, Anthony Quinn, Stanley Baker, Richard
Attenborough, Anthony Quayle, James Robertson Justice, James Darren,
Irene Papas, Gia Scala, Richard Harris. Rập theo khuôn mẫu của loại
phim chiến tranh hoàn thành sứ mạng được gao phó, Gregory Peck đóng
vai một sĩ quan trung cấp Đồng Minh chỉ huy một toán đặc nhiệm
tìm cách phá hủy hai khẩu đại bác hạng nặng của Đức Quốc Xã đặt
trên núi Navarone. Hai khẩu đại bác này rất lợi hại vì kềm chế
được kế hoạch hành quân của hạm đội Đồng Minh trong vùng Địa
Trung Hải. Toán đặc nhiệm, dù được sự giúp đở hữu hiệu của
kháng chiến quân Hy Lạp, gặp phải rất nhiều khó khăn từ việc
đương đầu với lính Đức đến những vấn đề bất đồng nội bộ và
nguy hơn hết là có âm mưu phản nghịch. Phim có bài nhạc hùng do
Dimitri Tiomkin sáng tác rất hay.


The
Last Man on Earth (1964) phim kinh dị giả tưởng, Vincent Price và
một lô tài tử Ý cũng vì phim này được quay hoàn toàn ở Ý.
Vincent Price là tài tử có một giọng nói thật trầm và ma quái
nhất Hollywood. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ thu hút được giới
khán giả mê thích phim kinh dị. Phim lại còn xoay quanh câu
chuyện của một người cuối cùng còn sống sót trên địa cầu
phải đương đầu với đám ma cà rồng. Thật ra phim này còn là
một sự phân tích tâm lý con người ở vào hoàn cảnh không còn
đồng loại nào chung quanh mình cả.


The
Omega Man (1971) phim kinh dị giả tưởng, Charlton Heston và một lô
tài tử không tiếng tăm, cũng rất hợp lý vì chuyện phim nói
về một người cuối cùng trên địa cầu thì còn nhân vật nào nổi
bật nửa đâu? Chỉ 7 năm sau phim "The Last Man on Earth", Hollywood
cho quay lại cốt chuyện được sửa đổi đi đôi chút, lần này
người cuối cùng không phải đương đầu với đám ma cà rồng mà
đương đầu với đám người bị biến dạng thành nửa người nửa
ngợm. Tuy về phần kỹ thuật điện ảnh, phim này có nét tân kỳ
hơn nhưng lại không được giới phê bình phim ảnh ưa thích bằng
phim trước trong đó yếu tố tâm lý của một người không đồng
loại được mô tả sâu xa hơn.


The
Sheepman (1958) (La Vallée de la Poudre / Vùng Thuốc Súng) phim cao
bồi, Glenn Ford, Shirley MacLaine, Leslie Nielsen. Một kẻ lạ đến
làng nuôi bò nọ đem theo một đàn cừu và nhất định cho cừu ăn
cỏ nơi đó bất chấp mọi sự chống đối của dân làng đang tìm đủ
mọi cách để tống khứ anh chàng nuôi cừu này.


The
Teahouse of the August Moon (1956) (Trà Thất Dưới Trăng Thu) phim
xã hội vui nhộn, Marlon Brando, Glenn Ford, Machiko Kyô, Eddie
Albert. Đệ Nhị Thế Chiến vừa chấm dứt được một năm, Hoa Kỳ
đang cai quản Nhật Bản. Đại uý Fisby được cử đến một làng ở
Okinawa để giảng dạy về dân chủ. Việc đầu tiên là xây một
trường học nhưng dân làng lại muốn có một trà thất trước đã.
Làm thế nào để đại úy Fisby có thể đệ trình lên cấp trên một
kế hoạch ngược đời như vậy!


Torpedo
Run (1958) phim chiến tranh, Glenn Ford, Ernest Borgnine, Dean Jones.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, thuyền trưởng của một tiềm thủy đỉnh
Hoa Kỳ có sứ mạng phải đánh đắm chiếc hàng không mẫu hạm
Nhật Bản đã tấn công Trân Châu Cảng. Vợ và con của ông đã bị
quân Nhật bắt cùng với một số tù binh Hoa Kỳ. Quân Nhật lại
dùng những người này như một tấm bình phong bằng người để che
chở cho chiếc hàng không mẫu hạm.


Un
Homme et une Femme (1966) (A Man and a Woman) phim tình cảm,
Jean-Louis Trintignant, Anouk Aimée. Một người đàn ông và một người
đàn bà, cả hai đều có con học nội trú ở một trường nhỏ miền quê
gần bờ biển. Cuối tuần, cả hai đến rước con đi chơi rồi quen
nhau, yêu nhau... Phim đoạt 2 giải Oscar Phim Ngoại Quốc Hay Nhất
và Chuyện Phim Viết Trực Tiếp Cho Phim Hay Nhất. Tình tiết thật
nhẹ nhàng lại được Francis Lai soạn nhạc để đời cho phim. Bài
nhạc cùng tên này cũng được các chuyên viên Đài FM Hoa Kỳ ưa thích
dùng làm nhạc hiệu cho chương trình, cứ đúng 8 giờ 30 tối là cho
phát thanh. Thời đó, nhạc sĩ dương cầm Thoại Tinh làm trưởng ban
nhạc phòng trà Blue Diamond, mỗi đêm khi bài nhạc "A Man and a Woman"
trên làn sóng FM vừa chấm dứt thì nhạc sĩ cho ban nhạc chơi tiếp
bài này luôn nên được khán giả Hoa Kỳ hoan nghênh nhiệt liệt. Về
sau này, Thoại Tinh về làm nhạc trưởng vũ trường Bách Hỹ và thu
nhận tôi vào ban nhạc chơi bass guitar. Mỗi đêm, khi mở đầu chương
trình ca nhạc, chúng tôi hòa tấu bài này và bài cuối cùng để chấm
dứt chương trình cũng là bài này. Tôi chơi nhạc ỡ vũ trường này
suốt mấy năm trời cho đến những ngày loạn ly tháng 4 năm 1975,
ampli nhạc cụ vẫn còn để ở vũ trường, rồi di tản rời khỏi
Việt nam đi Hoa Kỳ.


Un
Peu de Soleil dans l'Eau Froide (1971) (Một Chút Nắng Trong Nước
Lạnh) phim tình cảm, Marc Porel, Claudine Auger, Bernard Fresson,
André Falcon, Barbara Bach. Phỏng theo tiểu thuyết của nữ văn sĩ
Françoise Sagan, Gilles là một chàng trai trẻ gặp Nathalie, một
phụ nữ trưởng giả đẹp nhưng đã có chồng. Hai người yêu nhau,
sống chung với nhau nhưng cuộc tình không bền vững rồi bắt đầu
đi vào ngõ tối. Một hôm nọ, Nathalie bất chợt nghe được câu
chuyện giữa Gilles và một người bạn trai mà nội dung không mấy
thuận lợi cho cuộc tình nên Nathalie bỏ đi... Cùng giống như
những tiểu thuyết khác của Françoise Sagan, phim này nói lên thân
phận chua chát của người đàn bà khi bắt đầu có tuổi, dù đẹp
dù sang nhưng rốt cuộc vẫn hẩm hiu.


Un
Verano Para Matar (1972) (Summertime Killer / Meurtres au Soleil /
Tình Thù Rực Nắng) phim hoạt động, Christopher Mitchum, Karl
Malden, Olivia Hussey, Claudine Auger, Raf Vallone. Ngoài đời, tài
tử gạo cội Robert Mitchum có hai người con trai James và
Christopher, cả hai đều nối nghiệp cha và tạo nên tên tuổi cho
riêng mình. Trong phim này, Christopher thủ vai một cậu bé chứng
kiến cha mình bị sát hại, lớn lên cậu thanh niên nhất quyết đi
tìm những kẻ sát nhân để trả thù cho cha mình. Hollywood rất
ít khi hợp tác với các nước khác để làm phim, trái lại những
phim của Âu Châu phần nhiều đều có sự hợp tác giữa hai, ba,
bốn, năm nước để làm phim. Phim này do Pháp, Ý và Tây Ban Nha
hợp tác sản xuất.


Vera
Cruz (1954) phim cao bồi, Gary Cooper, Burt Lancaster, Cesar Romero,
Sara Montiel, Ernest Borgnine, Charles Bronson. Sau khi cuộc Nội
Chiến Hoa Kỳ chấm dứt, hai tay súng giang hồ gặp và kết bạn
với nhau rồi cùng vượt biên giới xuống Mexico kiếm ăn. Họ được
nhà vua ở đó giao cho sứ mạng hộ tống một đoàn xe đi qua vùng
cách mạng. Khi biết được trong một xe có chứa đầy vàng, lòng
tham con người nổi dậy và mọi chuyện gay cấn ly kỳ bắt đầu
diễn ra.


You're
Never Too Young (1955) (Un Pitre Au Pensionnat / Thằng Khờ Đại Náo
Ký Túc Xá) phim khôi hài, Dean Martin, Jerry Lewis, Diana Lynn, Nina
Foch, Raymond Burr. Cái tựa tiếng Việt dịch theo tựa tiếng Pháp
chỉ đúng nghĩa một phần, đáng lẻ là trường nội trú thay vì ký
túc xá mới đúng. Tôi nhớ đây là phim đầu tiên khán giả xi-nê Sài Gòn
được làm quen với danh hề Jerry Lewis. Vai của anh quá nổi bật
khiến cho vai của Dean Martin hơi lu mờ, chưa kể Dean Martin lại
hay hát hò nên chắc chắn khán giả Sài Gòn không quen lắm với giọng
ca và những bài hát không nổi tiếng đôi khi còn làm nhịp điệu vui
nhộn của phim khựng lại. Jerry Lewis đóng vai một anh chàng thợ
phụ hớt tóc chẳng may vô tình vướng vào một vụ trộm kim cương
mặc dù anh hoàn toàn vô tội. Bị tên cướp truy tìm ráo riết vì hắn
đã kín đáo nhét viên kim cương vào áo quần của anh, anh bèn phải bỏ
trốn bằng xe lửa. Không đủ tiền mua vẻ, anh bèn giả làm đứa bé
12 tuổi để được mua giá phân nửa tạo nên những trận cười nghiêng
ngữa. Chưa hết, anh còn được một thày giáo dạy nhạc và một và
một cô giáo giúp anh lẫn trốn vào một trường nội trú nữ càng làm
cho khán giả cười muốn vỡ bụng luôn. Tuy được khán giả toàn thế
giới ưa thích nhưng phim này không phải nguyên thủy mà được phóng
tác từ phim "A Major and a Minor" (1944). "Thằng Khờ Đại Náo Ký Túc
Xá" là phim vui nhộn nhất của cặp bài trùng Dean Martin - Jerry
Lewis. Một thời gian sau, cặp này tan rả và Jerry Lewis tiếp tục
đóng phim một mình. Khi còn Dean Martin thì tôi thấy vai của Dean hơi
vướng víu nhưng khi Jerry Lewis đóng một mình, tôi lại thấy như
thiếu một cái gì làm cho phim không còn vui nhộn trọn vẹn. Riêng
về Dean Martin, sau khi tách khỏi đóng đôi với Jerry Lewis và gia
nhập nhóm Frank Sinatra, sự nghiệp điện ảnh và ca hát của anh đã
tiến bộ vượt bực.

(còn tiếp)
http://trandangchi.blogspot.com/2007/11/xi-n-sai-gon-trc-1975-nhng-phim-chiu.html

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

WIDGET VÍ DỤ